Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2016

Bờ, có một chữ Bờ, không phải Buồn, mà là Bực

Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam mà cũng bảo rằng “bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa”.

Hôm 12/12, bản tin dự báo về áp thấp nhiệt đới của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương ghi rằng “đảo Huyền Trân thuộc quần đảo Trường Sa”. Buồn khi thấy cái sai to, tôi đã đăng status phê bình Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương, không những “nâng cấp” bãi ngầm Huyền Trân thành đảo, còn chuyển bãi ngầm này thuộc quần đảo Trường Sa. Trong status, tôi viết: “Nhà nước Việt Nam khẳng định, bãi ngầm Huyền Trân, cũng như các bãi ngầm Phúc Nguyên, Quế Đường, Tư Chính…, nơi Việt Nam lập Cụm Dịch vụ kinh tế - khoa học – kỹ thuật (DK1) thuộc thềm lục địa phía Nam Việt Nam, không thuộc quần đảo Trường Sa. Còn Trung Quốc luôn cho rằng khu vực các bãi ngầm Huyền Trân, Phúc Nguyên… thuộc quần đảo Trường Sa, từ đó đưa khu vực này vào phạm vi họ tranh chấp chủ quyền với Việt Nam. Nói khu vực các bãi ngầm Huyền Trân, Phúc Nguyên, Quế Đường, Tư Chính, Phúc Tần, Ba Kè, Vũng Mây thuộc quần đảo Trường Sa là nói trái với sự khẳng định lâu nay của Nhà nước Việt Nam, là nói đúng với quan điểm của Trung Quốc đó. Chuyện liên quan chủ quyền quốc gia, không phải chuyện nhỏ đâu”.
Rất nhanh sau đó, lãnh đạo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương đã nhận sai, và điều chỉnh bản tin.
Hôm nay, đồng nghiệp lại cho biết, trong một văn bản của UBND Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo ứng phó ATNĐ cũng ghi “đảo Huyền Trân thuộc quần đảo Trường Sa”. Chưa hết, trong thông báo ngày 17/12 của Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam (VMRCC) về việc cấp cứu ngư dân Trần Duy Lam, cũng ghi: “Tàu BV 98759 Ts đang hành nghề trên biển tại khu vực bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa”. Đọc hai văn bản này, tôi không còn buồn nữa, mà bực, giận. Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam là cơ quan có điều kiện, có trách nhiệm nắm rõ nhất, chính xác nhất thông tin về biển, đảo Việt Nam, về quan điểm của Nhà nước Việt Nam trong vấn đề chủ quyền biển, đảo. Vậy mà Trung tâm này cứ khơi khơi bảo rằng bãi ngầm Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, tức là đưa một thực thể địa lý hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam vào khu vực bị tranh chấp.
Bực, giận vì một lý do nữa: Bãi Tư Chính là một địa danh rất nổi tiếng trong tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc gọi bãi Tư Chính là Vạn An Bắc, coi nó thuộc quần đảo Trường Sa, nói rằng Trung Quốc có chủ quyền ở đó. Tháng 5/1992, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) ký hợp đồng thăm dò dầu khí ở các lô 133 – 134 – 135 trên thềm lục địa Việt Nam, cạnh bãi ngầm Tư Chính với Cty Crestone Energy của Mỹ. Việt Nam đã phản ứng quyết liệt, kể cả cho tàu có vũ khí ra đó, kết cục là Cty Crestone Energy phải ngưng việc thăm dò ở khu vực bãi Tư Chính. Rất lạ, nếu Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam không biết gì về vụ căng thẳng này.
Ngày 12/12, rất nhiều báo đã đăng theo bản tin của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương, trong đó “đảo Huyền Trân thuộc quần đảo Trường Sa”. Anh Lê Văn Nghiêm, Cục trưởng Cục Thông tin đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông đã dẫn status của tôi để đề nghị các báo sửa sai. Hôm nay, lại nhiều báo, kể cả báo Nhân Dân, báo Tin Tức – kênh thông tin của Chính phủ do TTXVN phát hành, báo Công An Nhân Dân… đăng tin theo thông báo của Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam, trong đó “bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa”.
Đừng lấy lý do “đăng đúng theo thông tin của Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam”. Thấy thông tin sai liên quan đến chủ quyền quốc gia thì phải chủ động báo sai, và chủ động sửa. Báo điện tử Infonet đưa tin theo thông báo của VMRCC về việc cứu ngư dân Trần Duy Lam, nhưng đã chủ động sửa thông tin sai lạc về bãi Tư Chính.
Bờ, có một chữ Bờ, chữ Bờ này không phải Buồn, mà là Bực!
Mấy chục năm tuyên truyền, có hàng nghìn nhà báo đã được ra Trường Sa, được ra DK1, luôn luôn hô rằng “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”, nhưng bao nhiêu người thực sự biết đâu là Trường Sa, đâu là DK1, đâu là thềm lục địa Việt Nam!


Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2016

Bãi Huyền Trân thuộc Trường Sa - Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương sai to

Không những “nâng cấp” bãi ngầm Huyền Trân thành đảo, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương còn chuyển bãi ngầm này thuộc quần đảo Trường Sa!
Nhà nước Việt Nam khẳng định, bãi ngầm Huyền Trân, cũng như các bãi ngầm Phúc Nguyên, Quế Đường, Tư Chính…, nơi Việt Nam lập Cụm Dịch vụ kinh tế - khoa học – kỹ thuật (DK1) thuộc thềm lục địa phía Nam Việt Nam, không thuộc quần đảo Trường Sa. Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương cần phổ biến cho mọi cán bộ, nhân viên nắm rõ điều này. Trước mắt là phải sửa ngay nội dung sai trong tin áp thấp nhiệt đới ở Biển Đông, đang được Trung tâm này phát.



Chuyện liên quan chủ quyền quốc gia, không phải chuyện nhỏ đâu. Trung Quốc luôn cho rằng khu vực các bãi ngầm Huyền Trân, Phúc Nguyên… thuộc quần đảo Trường Sa, từ đó đưa khu vực này vào phạm vi họ tranh chấp chủ quyền với Việt Nam. Nói khu vực các bãi ngầm Huyền Trân, Phúc Nguyên, Quế Đường, Tư Chính, Phúc Tần, Ba Kè thuộc quần đảo Trường Sa là nói trái với sự khẳng định lâu nay của Nhà nước Việt Nam, là nói đúng với quan điểm của Trung Quốc đó.   

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

Mừng sinh nhật Phương Anh


Con chào đời lúc khoảng 5 giờ sáng, khi ánh sáng của ngày mới bắt đầu rạng lên ở phương đông. Trong cái tên Phương Anh ba đặt cho con, Phương là hương thơm nhẹ nhàng, tinh khiết, là phương hướng, Anh là ánh sáng của viên ngọc, là thông minh, là loài hoa, là người con gái đẹp. 

Sinh nhật con, ba chúc con, ba tin con luôn là Phương Anh, là bông hoa thơm, là giỏi giang ngay thẳng, là xinh xắn tài năng, được mọi người yêu mến.

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2016

Vĩnh biệt Thiếu tá Fidel!

Vĩnh biệt Fidel!
Camaguey, Cuba, 2/12/2016
Đại lộ Malecon, thủ đô La Havana, Cuba, ngày 30/11/2016
Những giọt nước mắt của một nữ sinh ở thành phố Santiago de Cuba, khi đoàn xe chở bình tro cốt Fidel đi qua, ngày 3/12/2016
Các em học sinh hô vang "Tôi là Fidel", tại thành phố Camaguey, Cuba, ngày 2/12/2016
 Người phụ nữ với chữ "Fidel" trên trán, tại đại lộ Malecon, La Havana, ngày 30/11/2016
Người dân treo quốc kỳ Cuba và ảnh Fidel trên một tòa nhà ở La Havana, ngày 30/11/2016
Một phụ nữ mang tấm ảnh lớn của Fidel, La Havana ngày 30/11/2016
Hàng người vô tận tiễn biệt Fidel ở đại lộ Malecon, La Havana, ngày 30/11/2016
Hàng người vô tận tiễn biệt Fidel ở đại lộ Malecon, La Havana, ngày 30/11/2016
Chung một nỗi đau

Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2016

Viva Fidel!

Fidel qua đời, một số người, tạm cho là "có chữ" giở giọng giễu cợt, rằng bây giờ chỉ còn ông Nguyễn Minh Triết canh giữ hòa bình cho thế giới.
Họ dẫn lại việc cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đi thăm Cuba hồi cuối tháng 9/2009, khi ông nói với các bạn Cuba rằng, Việt Nam và Cuba cùng canh giữ hòa bình cho thế giới, Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ. Thực ra, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nhắc lại lời của Hồ Chí Minh từ cách đó 40 năm, để nói về tình cảm thân thiết và gắn bó giữa Việt Nam và Cuba. Ngày 14/7/1969, nhà báo nữ Marta Rojas của Cuba là nhà báo nước ngoài cuối cùng được phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuối cuộc phỏng vấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lời thăm tới Fidel, các vị lãnh đạo và nhân dân Cuba, cùng lời ví von: “Việt Nam và Cuba là hai người anh em ở cách xa nhau nửa vòng trái đất. Khi Cuba ngủ thì Việt Nam thức để canh gác và khi Việt Nam ngủ thì Cuba thức để bảo vệ”. Tôi nhớ hồi năm 1973 khi Chủ tịch Fidel thăm Việt Nam, câu nói này hay được nhắc lại trên báo, đài.
Bây giờ, có vài vị cứ gán câu đó cho ông Nguyễn Minh Triết, và nhân việc Chủ tịch Fidel Castro qua đời lại mang ra để nói kháy. Chỉ để thấy các vị đó tầm thường, lố bịch mà thôi.
Cũng các vị đó nói rằng Fidel đã làm Cuba trở thành quốc gia chậm phát triển. Họ quên rằng, Cuba là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về y tế, giáo dục, thể thao... Cuba còn nhiều vấn đề phải giải quyết, chưa là một đất nước sung túc, nhưng, như có người nói “hàng đêm trên thế giới vẫn có hàng triệu trẻ em không được ngủ trong một mái nhà, trong số này không có em nhỏ nào người Cuba”. Theo Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chỉ số phát triển con người (HDI), một trong những chỉ số quan trọng nhất để đánh giá cuộc sống của người dân tại từng quốc gia của Cuba năm 2013 là 0,815, ở mức cao của thế giới (44/187).

Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2016

Nhà báo bẩn

“Ở Việt Nam, có một số nhà báo giàu, rất giàu, sắm xe hơi sang, đủ tiền cho con cái du học tự túc ở Mỹ, ở Châu Âu, giá trị tài sản lớn gấp nhiều lần thu nhập từ lương và nhuận bút. Họ làm thế nào mà giàu? 
Họ thường ở vị trí thư ký tòa soạn, thư ký xuất bản của cơ quan báo chí hoặc vị trí có thể kiểm soát bài đăng. Khi thấy trong những tin, bài gửi về tòa soạn có tin, bài về tiêu cực, sai phạm tại một doanh nghiệp nào đó, họ bèn liên lạc với doanh nghiệp, và ra điều kiện để bài không được đăng… Đó là những phi vụ đơn lẻ (nhưng ở một cơ quan báo, thì một năm cũng có khá nhiều cơ hội cho những phi vụ đơn lẻ như vây). Ở tầm cao hơn, có những nhà báo, nhóm nhà báo đóng vai trò bạn ruột của một hay vài doanh nghiệp lớn, để thâm canh, bảo kê cho doanh nghiệp. Họ chuyên viết bài để PR cho doanh nghiệp đó, bên cạnh việc viết bài PR còn có thể biên tập bài vở của phóng viên khác để thêm vào nội dung có lợi cho doanh nghiệp ruột, cắt bỏ nội dung hoặc không cho đăng bài có nội dung bất lợi cho doanh nghiệp ruột. Tất nhiên doanh nghiệp kia sẽ được biết việc họ làm, và sẽ trả ơn họ. Khi doanh nghiệp ruột gặp sự cố, họ  liên hệ với những đồng nghiệp có thể viết về sự cố đó để dàn xếp, mua sự im lặng. Khi đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp ruột của họ gặp scandal, đó là cơ hội để họ tổ chức tấn công đối thủ, để danh nghiệp ruột của mình hưởng lợi.” 
Đoạn trên trích từ một tham luận ở hội thảo “Báo chí đồng hành cùng doanh nghiệp”, được Hội Nhà báo tỉnh Khánh Hòa tổ chức mới đây.
Vụ Vinastas công bố “hai phần ba số nước mắm truyền thống có lượng thạch tín vượt mức cho phép”, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn cho rằng có thể có sự dính líu của vài cây bút bẩn. Tôi cũng tin như thế. Hơn cả bẩn, có thể nói rằng họ đã phạm tội ác. 


Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2016

Phải chửi một phát, không thể chỉ nói mát!

1. Một thời gian dài, bao người tin câu chuyện bịa về việc ông Lý Quang Diệu từng mơ ước "làng chài nghèo" Singapore sẽ được như "hòn ngọc Viễn Đông" Sài Gòn. Đến khi anh Thăng cũng nói Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông từng là trung tâm phát triển nhất Đông Nam Á thì mọi sự bị bóc mẽ. Cảm ơn anh Thăng!
2. Bây giờ, nhân chuyện Nhà vua Bhumibol Adulyadej của Thái Lan mất, lại có người dựng chuyện Nhà vua từng mong Băng Cốc được như Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông. Tiện thể, họ lại kể rằng sau 1975 Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm Thái Lan, nói với Thủ tướng Thái Lan rằng Việt Nam tự hào thắng hai đế quốc to, Thủ tướng Thái đáp lại, chúng tôi tự hào không phải đánh thắng đế quốc nào mà vẫn giành được độc lập. Đây là chuyện tạo dựng như câu chuyện trên về mơ ước của ông Lý Quang Diệu, hẳn là thế. Thái Lan giành lại độc lập từ đế quốc nào nhỉ? Tuy nhiên, trong câu chuyện này cũng có ý hơi đúng, đó là Thái Lan không phải đánh thắng đế quốc nào. Nói đúng là thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đế quốc Anh, đế quốc Pháp không cần đánh Thái Lan, chỉ cần gây sức ép là Hoàng gia Thái đã cắt nhiều đất dâng cho chúng, nhục nhã. Là nước Đông Nam Á duy nhất không bị thực dân Phương Tây đô hộ, mấy trăm năm phát triển độc lập mà chỉ được như hiện nay, cũng không đáng tự hào.
3. Dẫn nguyên văn stt của bạn facebook Nghiêm Toàn: (Các anh nói) Biến đổi khí hậu là do Đảng, lượng mưa lên tới 400mm là do chính quyền độc tài, tham nhũng, còn nếu dân chủ văn minh thì nó chỉ là 50 mm thôi. Những giờ phút này, hãy biến đau thương thành mồm vàng, lưỡi ngọc, mỗi lời của các anh đang rỉa rói bỉ bôi chính quyền sẽ làm ấm lòng bao người dân miền Trung đang dầm mình trong nước lạnh. Dân chủ văn minh, no ấm là ở đấy chứ ở đâu. Đcm các anh, các anh là thứ tôi khinh bỉ nhất trên mặt đất này.

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2016

Hôm nay là ngày Độc lập!

Đã 71 năm rồi, đọc lại bài “Hôm nay là ngày Độc lập! Muôn năm Độc lập! Độc lập muôn năm!”, đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật số ra ngày 9/9/1945, cảm nhận không khí rạo rực, phấn khích của Ngày Độc lập 2/9/1945, ngày “tết hơn một trăm ngày tết”.

Hôm nay là ngày Độc lập! Muôn năm Độc lập! Độc lập muôn năm!
Toàn bộ trang bìa báo Trung Bắc Chủ Nhật số ra ngày 9/9/1945 đăng ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, do cố Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh chụp

Tết Nguyên đán vào hạ tuần tháng bảy
          Độc lập! Độc lập! Tiếng điện này này hôm nay (2-9-45) vang lên trong không khí như một tiếng nổ. Vang từ Bạch Mai qua phố Huế đi thẳng đến Quán Thánh, chợ Bưởi, vang từ làng Trèm Vẽ lướt qua Nghi Tàm mà về tận làng Thanh Trì. Độc lập! Độc lập! Vang lên từ Hà Nội  tới Sài Gòn!
          Sau bao nhiêu năm trời – ba phần tư của một thế kỷ - tiếng Độc lập này đã biến mất trong cuốn tự vị dân sinh của dân Việt Nam, ngày nay mới lại nổ bùng từ chợ chí quê của đất “Việt Nam yêu dấu ngàn năm”!
          Đây, hôm nay là một ngày mồng một tết Nguyên đán của dân Việt Nam tuy hôm nay mới là 26 tháng bảy năm Ất Dậu. Nhưng ngày Độc lập này quả thật còn có vẻ tết hơn một trăm ngày tết khác!
              Trong thành phố, không ai là không lau chùi nhà cửa! Bàn thờ thì đèn nến sáng trưng, hương trầm ngào ngạt. Dân Hà Nội cúng bái tổ tiên, và khi dâng rượu và đồ cúng lên thì những tràng pháo dài thi nhau nổ vang lên khắp phố.
              Giời chỉ mát xuống mười độ nữa để đủ gây lên một cái không khí tháng Giêng thì ngày Độc lập quả có thể gọi là một ngày Tết một trăm phần trăm vậy. Các người làm trong nhà được các ông chủ bà chủ cho nghỉ hết và hẹn nhau chiều này sẽ xếp thành hàng ngũ đi đón vị Chủ tịch của Chính phủ lâm thời Việt Nam.
              Một vài anh xe nhà cố kéo chủ đi mua thêm vài thứ nhật dụng bị các thanh niên giữ lại và khuyên chủ nhà nên cho người làm về nghỉ để chiều họ còn đi mít tinh, biểu tình.
              Và cũng khai bút hẳn hoi. Kẻ thì dán lên trên tường những dòng chữ tỏ rõ cái chí hiên ngang của mình “Sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc!”, “Giọt máu cuối cùng, hơi thở sau hết của ta phải dâng lên cho đất nước”! Kẻ thì làm thơ ca tụng nền độc lập bất diệt của nước Việt Nam.
              Nhưng tôi chắc không ai quả quyết và thâm thúy bằng một nhà nọ ở phố Bắc Ninh viết mấy hàng chữ này “Độc lập hay là chết!” và dán lên… Đố các bạn biết ông dán lên đâu? Ông ấy dán lên cỗ áo quan lớn nhất bán ở cửa hàng nhà ông ta. Thật là ngộ nghĩnh, nhưng mà nhìn ông với cái thái độ cứng cỏi hiện trên vừng trán sáng ngời, tôi bất giác nghĩ lại chuyện xưa, khi Bàng Đức vác áo quan ra chiến trường quyết chiến với Quang Vân Trường và chỉ biết có một là thắng hai là chết mà thôi!
              Ở các phố khác các cửa hàng mở buổi sáng đón tiếp khách niềm nở, dù mua hàng hay không cũng mời nước và thuốc lá và khi bán hàng thì khách hàng muốn trả bao nhiêu cũng được.
              Hôm nay là ngày Độc lập!
              Các hiệu cao lâu không những đã xuống giá, lại còn nhất định bán được bao nhiêu cũng trích ra 50 phần trăm giúp Giải phóng quân.
              Nhưng cảm động hơn hết có lẽ là những người buôn bán ít vốn. Ít vốn nhưng lòng tốt thì nhiều vô kể. Bán rẻ quá ngày thường – mà người ta đã rõ các người buôn thúng bán mẹt này lời lãi mỗi ngày được bao nhiêu? Một bà mắt cặp kèm bán bún riêu bán một bát bún đầy tú hụ cho một cô đi chợ chỉ lấy có một hào. Sao cụ tính rẻ quá thế? Hôm nay là ngày độc lập. Và cãi nhau thì cãi, nhất định không lấy thêm một xu. Bát bún ấy ngày thường bà phải bán ba hào. Bà cho biết: Có hai người con và hai người cháu bà đều gia nhập đoàn ngũ Việt Minh từ ngày nảo ngày nào rồi!
              Nhiều người khác nhất định bán cho nhanh cho chóng để còn về ăm cơm sửa soạn cho các cháu và cho cả họ đi biểu tình đón tiếp cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam!

Đoàn kết, đoàn kết…
             
              Trong khi các phái trẻ sửa soạn cờ, biển, sắp đoàn ngũ, gậy gộc hoặc là tập hát những bản anh hùng ca cho đều thì các ông già bà cả lo làm cơm cúng tổ tiên và mời mọc những người bạn đến uống rượu mừng nền độc lập. Bao nhiêu oán thù quên sạch. Cụ Cử T. ở phố Quan Thánh có đi đâu bao giờ, thế mà sáng dậy sửa soạn khăn áo, chống gậy trúc – cụ hơn 80 tuổi rồi – bắt kéo xe xuống phố Huế thăm cụ Tú Nh. để mà xử hòa cái giận hờn nhau từ năm 1926 về một câu văn chê nhau là “khó nghe”. Thôi thì lại vỗ về nhau, ngâm nga với nhau và quên phứt rằng trong ngót 20 năm trời ấy tuy đã gặp nhau nhiều bận bất đắc dĩ tại một nhà đường quan kia nhưng nhất định không thèm chào hỏi, trò chuyện với nhau bao giờ.
              Bà Cả Phong ở phố Hàng G. đang lúc nắm cơm cho mấy con nhỏ đem đi dự biểu tình thì tự nhiên thấy cô con gái 8 tuổi hớt hơ hớt hải chạy vào báo có “con mẹ” trước cửa cho đem nhãn sang để biếu. Bà quát: “Láo nào, bà Năm Nghĩa chứ gì?”. Và bà vui vẻ, chỉnh đốn quần áo ra đón bà bạn ba năm về trước đã chửi nhau với bà vì chuyện lạc mất ba con chim bồ câu sang nhà mình. Các bà cười với nhau, nhận ra rằng hồi ấy “chia rẽ” quá và nhất định là hôm nay phải ăn cơm nhà nhau để mà nói chuyện cho hả dạ.
              Đoàn kết, đoàn kết, đâu đâu cũng chỉ là câu chuyện đoàn kết!
              Với cái tinh thần cao quý ấy, sáng nay Hà Nội sống trong một làn không khí cực kỳ thân mật. Người, rặt là người! Đông quá, hàng phố chỉ rặt một hạng người nhanh nhẹn, nụ cười nở trên môi, lòng chứa chan hy vọng.
              Hôm nay là ngày Độc lập.
              Giời đất sáng bừng lên như có thêm lửa cháy. Ngọn lửa cháy này lát nữa sẽ thiêu đốt hàng trăm vạn người ở vườn hoa Ba Đình, từ một ông công chức xưa đeo rặt mề-đay cho đến cậu bé bán kẹo nghèo rớt, cả ngày kiếm không được ba xu lãi.

Một người nói, triệu người nghe

              Trước khi mặt trời đứng giữa vùng trời, các đoàn ngũ ở các nơi đã rầm rộ kéo nhau về phía phủ Toàn quyền cũ, tới họp trước vườn hoa Ba Đình, có lẽ định chiếm lấy một chỗ thật tốt để mà được gần gụi vị Chủ tịch Hồ Chí Minh  chăng? Các sinh viên, các chiến sĩ hàng trăm người làm việc chật vật mới giữ nổi trật tự cho số một triệu người đến dự cuộc biểu tình độc lập này ở khắp các phố Hà Nội , ở các làng lân cận và ở các tỉnh xa về dự nữa.
              Người ta thấy từ 12 giờ trưa, từ những trẻ em mới chập chững biết đi cho đến các cụ già ngót trăm tuổi cũng chống gậy sắp hàng đi đón Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy các nhân viên của Chính phủ lâm thời đã nhất định 2 giờ trưa thì tới dự lễ, nhưng đám biểu tình vẫn tiếp tục kéo tới cho nên mãi tới 2 giờ 25 phút, giữa muôn vạn tiếng hoan hô dậy trời dậy đất, đoàn ô tô mới tiến tới gần khán đài. Đột nhiên yên lặng, một triệu người nín thở để nhìn một người! Người ấy điềm tĩnh bước lên khán đài. Bận một cái áo vàng cũ kỹ và đội một chiếc mũ lại ọp ẹp và cũ kỹ hơn nữa, người ấy nhìn thẳng vào một triệu người đang nhìn mình. Mắt thì sáng ngời, chòm râu đã hoa râm trên một bộ mặt xương xẩu nhưng cương quyết lạ thường, một sức mạnh hiên ngang đã hiện ra trên bộ quần áo cũ kỹ có lẽ đã nhuốm bao nhiêu sương gió khi người ấy bôn tẩu ở hải ngoại để xây đắp nền độc lập Việt Nam. Người ấy là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
              Bài “Tiến quân ca” vang dậy và cờ đỏ sao vàng được kéo lên cột cờ. Tiếp đó Chủ tịch Hồ Chí Minh  tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam với 25 triệu đồng bào và với tất cả thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”!”
              Lời tuyên bố vừa dứt, một triệu người hoan hô Chủ tịch.
              Đúng 2 giờ 40 phút, Chính phủ tuyên thệ sẽ dìu dắt 25 triệu dân của nước Cộng hòa dân chủ đến một cuộc đời sống toàn mỹ. Tiếp đó đến ông Võ Nguyên Giáp lên diễn đàn nói về sự đoàn kết của dân ta nhất định chống lại bất cứ một cuộc xâm lăng nào! Bài diễn văn của ông luôn luôn bị công chúng ngắt đứt để vỗ tay hoan hô.
              Hồi 3 giờ 10 phút ông Trần Huy Liệu nói về công việc của ông vào Thuận Hóa nhận việc thoái vị của vua Bảo Đại. Ông thuật qua lại những đoàn biểu tình nhiệt liệt hoan hô Chính phủ suốt từ Thanh Hóa trở vào đến Thuận Hóa và những chi tiết trong việc vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao ấn kiếm cho ông, tức là Ủy viên của Chính phủ lâm thời Việt Nam. Đúng 3 giờ 20 phút, ông Trần Huy Liệu trao ấn và kiếm bằng vàng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, để Chủ tịch giơ lên cho quốc dân xem. Khi chiếc ấn và chiếc kiếm vàng giơ lên lấp lánh dưới ánh mặt trời gay gắt thì quốc dân hò reo ầm ĩ. Nền quân chủ 400 năm trời nay đè nén dân Việt Nam bây giờ mới bị sụp đổ.
              Sau khi ông Nguyễn Lương Bằng nói qua về sự quả quyết của Mặt trận Việt Minh tiến lên đi, để tận tụy làm việc cho quốc dân thì hồi 3 giờ 35 phút quốc dân Việt Nam hồi hộp thề trước Chính phủ rằng sẽ trung thành với Chính phủ và không bao giờ giúp giặc Pháp để chân lên đất này và sẵn sàng giết hết các cuộc xâm lăng.
              Chương trình chấm hết. Trước khi giải tán đám biểu tình, Chủ tịch Hồ Chí Minh  có căn dặn quốc dân mấy lời chót: “Của quý nhất của quốc dân, của thế giới là sự Độc lập. Giờ đây chúng ta đã được độc lập rồi chúng ta phải giữ gìn lấy. Tất cả quốc dân phải đoàn kết lại, xin đồng bào chớ vội tin rằng đã thái bình hẳn. Chúng ta sẽ còn phải vượt qua nhiều sự gian lao, đau khổ hơn nữa, đồng bào phải ủng hộ Chính phủ, sau này sẽ còn nhiều cuộc khánh chúc thắng lợi nữa!”
              Và cuộc biểu tình chấm dứt hồi 3 giờ 45 phút. Một triệu người chia thành từng đoàn người đi thị uy qua các phố lớn và kéo tới hồ Hoàn Kiếm thì giải tán.

Thành phố ăn mừng

              Cuộc biểu tình vừa tan rã thì ai nấy vội vã về nhà tắm rửa để sửa soạn đi ăn cơm, uống rượu ở nhà các người quen mừng ngày độc lập. Đèn điện thắp lên như sao sa! Nhiều phố, dân gian bầy hẳn cỗ bàn ra ăn ở ngoài đường. Đừng ai đi qua mà ghé mắt nhìn đấy nhé. Nếu không tất bị tóm vào bắt phải uống rượu mừng độc lập với các ông bà ấy. Chối từ càng bị phạt thêm. Vui đáo để!
Hôm nay là ngày Độc lập.
              Các tiệm ăn chật ních những người và chẳng ai quen ai mà cứ bàn này chạy sang bàn kia để mời nhau ăn, nhau uống để tỏ tình đoàn kết.
              Cảm động nhất là tại một cao lâu nọ một phố đông kia. Đang lúc ăn uống một nhà thi sĩ đứng lên tuyên bố rằng sẽ “vứt bút nghiên theo nghiệp kiếm cung” và đọc hai bài thơ cách mạng. Rồi uống với khắp người quen và lạ một chén rượu mừng. Một cụ già trên bảy mươi tuổi run run nâng cốc rượu nói: “ Tôi thú thật không biết uống rượu bao giờ, nhưng cũng cố xin uống. Có say thì đã có cháu đây vác tôi về. Nhưng quả thật là ngày hôm nay đẹp quá. Hôm nay tôi mới sống hẳn hoi, vì trong 60 năm trời Pháp thuộc tôi sống thừa hay cũng như đã chết rồi. Tôi đã từng thấy giặc Pháp hạ thành Hà Nội, thấy họ cai trị xứ ta một cách tàn khốc, tôi đã từng đi học chữ Nho, chữ Pháp nhưng chữ nghĩa ấy chỉ để trong bụng chứ không được dùng nó để tỏ chí nguyện của mình. Cái miệng tôi đây đã hơn 70 năm nay có nhưng để mà câm không nói gì được! Bây giờ, hôm nay tôi mới được nói và xin nói: “Hôm nay là ngày độc lập. Muôn năm độc lập! Độc lập muôn năm!” Và cụ uống cạn chén để đỏ mặt lên ngang chiếc cờ đỏ sao vàng treo giữa gian phòng khách sạn.
              Nhiều đình ở các làng lân cận và các phố Hà Nội tối nay làm lễ tế thần và cho trai làng, trai phố vào tế và thề sẵn lòng hy sinh giữ nền độc lập cho nước. Từng đoàn trai trẻ, gái, trai, già trẻ đi ngoài phố hát những bài anh hùng ca, nhất định không về nhà nữa nếu hôm nay Hà Nội  không thiết quân luật. Đôi chốc tiếng pháo lại nổ vang xa nghe như trong một đêm ba mươi Tết. Dân chúng đang đuổi cái óc nô lệ đi để tiếp đón một cái thế hệ mới hoàn toàn độc lập.
              Mai đây, giời sẽ sáng sủa tưng bừng. Nước Việt Nam độc lập sẽ thành một cường quốc trước mãnh lực đoàn kết của 25 triệu dân Việt Nam thề sống chết có nhau. Kìa, nghe đoàn thanh niên rước rồng ở đầu phố đằng kia thề uống máu kẻ xâm lăng và hô to trong ánh đuốc: Hôm nay là ngày Độc lập!
Tùng Hiệp          

Theo cố nhà văn Vũ Bằng (sách Bốn mươi năm nói láo), Tùng Hiệp, tác giả bài báo này là một nhà báo rất thạo tin, tên thật là Nguyễn Xuân Hiệp, con một gia đình khá giả ở phố Hàng Bồ, Hà Nội. Sau khi thực dân Pháp trở lại tạm chiếm Hà Nội, mấy người Tây lai bị Tùng Hiệp trêu tức đã bắn chết ông.  


Thứ Ba, 26 tháng 7, 2016

Trần Bá Toàn ơi, đồng đội ơi!

      
  Bức ảnh này được chụp ở núi Non Nước, Đà Nẵng giữa tháng 10/1984, người thanh niên ngồi bên trái là Trần Bá Toàn. Đây là bức ảnh chụp cuối cùng của Trung úy Trần Bá Toàn, sinh ngày 14/2/1962, mất ngày 1/2/1985 tại chiến trường Campuchia. Toàn là học sinh lớp chuyên Toán trường THPT Ngô Sĩ Liên tỉnh Hà Bắc (Bắc Giang và Bắc Ninh ngày nay) khóa 1976 – 1979, học viên lớp Công sự khóa 14 Học viện Kỹ thuật Quân sự (10/1979 – 10/1984). Sau khi tốt nghiệp Học viện Kỹ thuật Quân sự, Toàn và tôi cùng rất nhiều bạn học khác được cử sang Campuchia.
“Đường/ Nắng ngập bụi đất/ Mưa ngập bùn lầy/ Ẩn khuất những quả mìn lạnh ngắt/ Người lính tình nguyện/ Gạt bùn đất mà đi/ Gỡ mìn mà tiến/ Bao chiếc xe dính mìn bốc cháy/ Bao bàn chân bạn tôi gửi lại…” Đó là một đoạn trong bài thơ “Những nẻo đường chiến tranh” của Trần Văn Thịnh, bạn học cùng lớp đại học của tôi, cùng sang chiến trường Campuchia. Không chỉ một bàn chân hay một cánh tay, Trần Bá Toàn đã gửi lại cả sự sống của anh bên xứ Chùa Tháp. Trung úy Trần Bá Toàn mất ngày 1/2/1985, khi chưa tròn 23 tuổi, chỉ 3 tháng sau khi sang Đoàn 5501, Mặt trận 579. Khi đó, Toàn vừa được Viện quân y 21 điều trị dứt một trận sốt rét ác tính thể não, đang ở Trạm khách Mặt trận 579 tại thị xã Stung Treng chờ đi nhờ xe lên lại đơn vị ở gần ngã ba biên giới Campuchia – Thái Lan – Lào thì tái phát sốt rét, rồi mất. Toàn được đưa về an táng ở nghĩa trang Đức Cơ, tỉnh Gia Lai, nhưng sau đó, đau đớn thay, mộ Toàn thất lạc. Một phần tư thế kỷ sau, đến tháng 10/2009 chúng tôi mới biết mộ bạn Trần Bá Toàn của chúng tôi đang ở một nghĩa trang bỏ hoang tại thành phố Playku, tỉnh Gia Lai. Sau nhiều rắc rối nữa, tháng 6/2011 chúng tôi và các em trai, em rể Toàn mới đưa được Toàn về với gia đình ở huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
Viếng mộ Trần Bá Toàn ở nghĩa trang Trà Đa, Playku đêm 17/12/2010
Trần Bá Toàn đã tìm về được với gia đình, nhưng đến nay anh ấy vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ. Danh dự người lính của Trần Bá Toàn chưa về được cùng anh.
“Anh sang Campuchia là xung phong đi hay phải đi?” Ngày 23/10/2009, tại Đà Nẵng, một phóng viên trẻ đã hỏi tôi như thế, trên đường chở tôi đến nhà Hoàng Trung Thông, một bạn học của Toàn và tôi ở K14 Học viện Kỹ thuật Quân sự, đồng đội của chúng tôi ở chiến trường Campuchia. Hôm đó, tôi đến nhà Hoàng Trung Thông, để cùng Thông và hai đồng đội nữa lên Tây Nguyên tìm mộ Trần Bá Toàn.
Trần Bá Toàn, Hoàng Trung Thông, Trần Văn Thịnh…, chúng tôi sang chiến trường Campuchia theo điều động của Bộ Quốc phòng, không làm đơn tình nguyện, không ký tên bằng máu để xung phong, nhưng với tâm thế nhẹ nhàng của người lính, của người đàn ông biết việc mình cần làm cho Tổ quốc. “Giúp bạn là tự giúp mình”, câu đó mãi mãi đúng, để nói về hơn 10 năm những người lính Việt chiến đấu, hy sinh ở Campuchia, 1979 – 1989. Bạn Trần Bá Toàn của chúng tôi sang chiến trường Campuchia với tư thế của người lính. Trần Bá Toàn không mất trong một trận chiến, nhưng việc anh ấy mất vì bạo bệnh tái phát, khi đang chờ trở lại đơn vị là sự hy sinh.   
      Trần Bá Toàn ơi, đồng đội ơi! Đối với tao, đối với Thông mắm, đối với Nguyên khọm, đối với Nguyễn Mạnh Hùng…, mày mãi mãi là đồng đội, là người lính đã hy sinh tuổi thanh xuân vì Tổ quốc! 



Thứ Năm, 14 tháng 7, 2016

Phán quyết của PCA và hệ lụy với Việt Nam

        Lợi rõ ràng: Tòa Trọng tài (PCA) tuyên bố "đường chín đoạn" của Trung Quốc là không có cơ sở pháp lý, đồng thời Trung Quốc "không có chủ quyền lịch sử" tại Biển Đông.
Chỉ có vậy!
Phán quyết về những nội dung khác, dù bất lợi cho Trung Quốc nhưng không hẳn có lợi cho Việt Nam, có nội dung hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam. Một số nội dung phán quyết cũng không hoàn toàn có lợi cho Philippines.   

Đối với 7 đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng ở Trường Sa, PCA tuyên rằng Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập và Gaven là các cấu trúc nổi trên mặt nước vào lúc thủy triều lên cao (đá), có lãnh hải 12 hải lý, còn Xu Bi, Tư Nghĩa, Vành Khăn là các cấu trúc chìm khi thủy triều lên (bãi, không có 12 hải lý lãnh hải, chỉ có 500m vùng an toàn. Việc PCA tuyên rằng 7 đảo nhân tạo này không có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (EEZ) và thềm lục địa không có nhiều ý nghĩa, vì đó là điều hiển nhiên, chiếu theo Công ước quốc tế về luật biển (Công ước). Tuy nhiên, phán quyết rằng một số trong các thực thể địa lý này là bãi lúc nổi lúc chìm sẽ phương hại đến đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam đối với chúng, ảnh hưởng cả đến một số thực thể Việt Nam đang đóng giữ như đá Tốc Tan, đá Núi Le, đá Tiên Nữ (sẽ phân tích sau). Tất cả các thực thể này nằm trong khoảng cách 200 hải lý, tính từ đường cơ sở của Philippines.  
Theo PCA, Trung Quốc đã: Can thiệp vào việc thăm dò dầu khí của Philippines tại Bãi Cỏ Rong; Chủ ý cấm các tàu Philippines đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại bãi Vành Khăn và bãi Cỏ Mây, bảo vệ cho và không ngăn ngừa ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá tại các nơi này; Xây dựng các công trình và đảo nhân tạo tại Vành Khăn mà không được sự đồng ý của Philippines. Do vậy PCA kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này. Kết luận này trái với tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
PCA kết luận rằng, tất cả các cấu trúc nổi tại Trường Sa (Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây…) đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra EEZ hoặc thềm lục địa. Phán quyết này có phần không lợi cho Việt Nam, trong trường hợp Việt Nam đòi hỏi các đảo Việt Nam đang đóng giữ như Trường Sa, Song Tử Tây, Sinh Tồn… phải có EEZ. Nhưng đồng thời, Trung Quốc (và Đài Loan Trung Quốc) cũng không thể dùng 200 hải lý EEZ quanh đảo Ba Bình mà họ cho là có chủ quyền để tạo nên vùng tranh chấp với EEZ và thềm lục địa tính từ đường cơ sở bờ biển Việt Nam nữa. Các vùng biển tranh chấp bị thu hẹp về phạm vi 12 hải lý quanh mỗi đảo đá tại Trường Sa.  
Có một phán quyết không hoàn toàn có lợi cho Philippines, đó là: “Tòa Trọng tài cũng kết luận rằng Công ước không quy định việc một nhóm các đảo như quần đảo Trường Sa sẽ có các vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất”. Tuy nhiều phán quyết của PCA gián tiếp đưa đến suy luận rằng phần lớn khu vực quần đảo Trường Sa nằm trong phạm vi EEZ của Philippines, có lợi cho Philippines, nhưng phán quyết nói trên của PCA khiến Philippines không thể quy gần như toàn bộ quần đảo Trường Sa thành một thể thống nhất mà họ gọi là Nhóm đảo Kalayaan, chỉ có thể đòi chủ quyền đối với từng thực thể địa lý ở đây.

Bản đồ tranh chấp tại khu vực quần đảo Trường Sa (8 điểm đỏ góc dưới bên trái ảnh là khu vực thềm lục địa Việt Nam, có các Nhà giàn DK1 trên các bãi cạn Phúc Tần, Huyền Trân, Tư Chính..., hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam)
          Cùng với việc đánh giá các phán quyết của PCA, cần quan tâm đến các lập luận của PCA để dẫn đến các phán quyết ấy.

          Khi xem xét hồ sơ lịch sử để xác định Trung Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở Biển Đông trước khi Công ước có hiệu lực hay không, PCA  lưu ý rằng có chứng cứ cho thấy người đi biển và ngư dân của Trung Quốc, cũng như của các nước khác, trong lịch sử đã sử dụng các đảo ở Biển Đông. Tuy nhiên, Tòa quyết định là trước khi có Công ước, các vùng biển ở Biển Đông bên ngoài vùng lãnh hải về pháp lý đều là một phần của vùng biển quốc tế, tại đó tàu thuyền của bất kỳ quốc gia nào đều có thể qua lại và đánh cá một cách tự do. Vì vậy, Tòa đã kết luận rằng việc Trung Quốc qua lại và đánh cá trong lịch sử ở vùng biển của Biển Đông đã thể hiện các quyền tự do trên biển cả, thay vì một quyền lịch sử, và rằng không có chứng cứ nào cho thấy rằng trong lịch sử Trung Quốc đã một mình thực hiện việc kiểm soát các vùng biển ở Biển Đông hay ngăn cản các quốc gia khác khai thác những tài nguyên của mình. PCA có lập luận như vậy khi xem xét các hồ sơ của Việt Nam?
Theo Điều 121 của Công ước, các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và có thềm lục địa. PCA giải thích Điều 121 và kết luận rằng các quyền có vùng biển của một cấu trúc phụ thuộc vào: Năng lực khách quan của cấu trúc; Trong điều kiện tự nhiên, nó có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào tài nguyên bên ngoài, và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác. PCA thấy rằng nhiều cấu trúc tại Trường Sa hiện đang được một hoặc nhiều quốc gia kiểm soát và họ đã xây dựng các cấu trúc và duy trì nhân lực tại chỗ. PCA kết luận rằng việc hiện diện của các nhân viên công quyền trên nhiều cấu trúc không chứng minh được khả năng của các cấu trúc này, trong điều kiện tự nhiên, để duy trì cộng đồng cư dân ổn định và cho rằng các bằng chứng lịch sử về việc định cư hoặc đời sống kinh tế có ý nghĩa hơn đối với năng lực khách quan của các cấu trúc. Qua đánh giá hồ sơ lịch sử, PCA thấy rằng các đảo Trường Sa trong lịch sử từng được các nhóm nhỏ ngư dân từ nhiều nước sử dụng, một số công ty khai thác phân chim và đánh cá của Nhật đã có hoạt động tại đây vào những năm 1920 và 1930. PCA kết luận rằng, việc sử dụng tạm thời các cấu trúc của ngư dân không dẫn đến việc cư ngụ của một cộng đồng ổn định và tất cả các hoạt động kinh tế trong lịch sử đều chỉ có tính chất khai thác. Theo đó, PCA kết luận rằng tất các cấu trúc nổi tại quần đảo Trường Sa đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lập luận này của PCA, trong hành trình đòi công nhận chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa.
Xem xét quyền đánh cá truyền thống tại bãi Scarborough, PCA kết luận rằng ngư dân từ Philippines, cũng như Trung Quốc và các nước khác, đã đánh cá tại bãi Scarborough từ lâu và có quyền đánh cá truyền thống tại khu vực này. Do bãi cạn Scarborough nổi trên mặt nước lúc thủy triều lên, cấu trúc này có quyền có lãnh hải, vùng nước xung quanh cấu trúc này không tạo thành vùng đặc quyền kinh tế và quyền đánh cá truyền thống không bị mất đi do Công ước. Tòa xác định rằng Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi ngăn chặn tiếp cận bãi cạn Scarborough sau tháng 5 năm 2012. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thấy rằng Tòa cũng sẽ có kết luận tương tự đối với quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc nếu Philippines có hành động ngăn cản việc đánh cá của công dân Trung Quốc tại bãi Scarborough. Với phán quyết trên của PCA, Trung Quốc có cớ lưu đội tàu tại Scarborough và nhiều bãi đá khác tại quần đảo Trường Sa, tiền đề để không chế, kiểm soát những bãi đá đó.
PCA đã khẳng định, “Toà không phán quyết các vấn đề nào liên quan đến chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đất liền và không tiến hành phân định bất kỳ một ranh giới trên biển nào giữa các bên của vụ kiện. Phán quyết ngày 12/7/2016 của PCA chưa giải quyết được những mâu thuẫn, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Việc Trung Quốc không tham gia vụ kiện, phản bác toàn bộ phán quyết của PCA cho thấy vũ khí pháp lý có tác dụng không nhiều trong việc bảo vệ chủ quyền của các quốc gia. Như facebooker Tâm Minh Nguyễn nói, giá trị cao nhất của một phán quyết của PCA chỉ là làm mất uy tín của một quốc gia đã vi phạm chính những điều ước quốc tế mà họ ký kết, tạo dư luận đồng thuận của quốc tế đối với quốc gia bị xâm phạm chủ quyền biển đảo.
Việt Nam có thể sử dụng kinh nghiệm của Philippines tại vụ kiện vừa qua trong đấu tranh đòi công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Dùng con đường pháp lý để đòi chủ quyền biển, đảo là cần thiết, nhưng cần hết sức thận trọng. Cửa thắng không chắc chắn, nhưng có thắng cũng khó giành lại chủ quyền thực tế, nếu trong tay chỉ có những phán quyết như của PCA. 

GHI CHÚ:
Tuyên bố ngày 12/51977 của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VIệt Nam:
1. Lãnh hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của Việt Nam tính từ ngấn nước thuỷ triều thấp nhất trở ra.
...
5. Các đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam ở ngoài vùng lãnh hải nói ở Điều 1 có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng như đã quy định trong các điều 1, 2, 3, và 4 của Tuyên bố này.
Theo Tuyên bố này, các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa có có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. http://bienphongvietnam.vn/van-ban-phap-luat/van-kien-phap-ly-dieu-uoc-quoc-te/178-vankien02.html

Tuyên bố ngày 12/111982 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam tiếp tục nêu quan điểm của Tuyên bố ngày 12/5/1977: 4. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể trong một văn kiện tiếp theo phù hợp với điểm 5 của bản Tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 5. Vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo của Việt Nam là nội thủy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Theo Luật Biển Việt Nam, được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013, đã có sự điều chỉnh, không còn khẳng định mọi đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nhưng Luật Biển Việt Nam cũng không loại trừ việc một số đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa có thể có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Điều 20. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo, quần đảo: 1. Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; 2. Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Thứ Tư, 13 tháng 7, 2016

Tóm tắt THÔNG CÁO BÁO CHÍ của Toà Trọng tài Biển Đông - PCA Biển Đông

      La Hay, 12 tháng 7 năm 2016
Toà Trọng tài ban hành phán quyết
Phán quyết được Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (sau đây gọi là “Công ước”) trong vụ kiện giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa hoàn toàn nhất trí thông qua và ban hành.
Vụ kiện trọng tài này liên quan đến vai trò của các quyền lịch sử và nguồn xác định quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông, quy chế của một số cấu trúc cụ thể và các vùng biển của các cấu trúc này, và tính hợp pháp của các hành vi của Trung Quốc mà Philippines cho là vi phạm Công ước. Phù hợp các giới hạn của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước, Toà Trọng tài đã nhấn mạnh Toà không phán quyết các vấn đề nào liên quan đến chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đất liền và không tiến hành phân định bất kỳ một ranh giới trên biển nào giữa các bên của vụ kiện.
Theo quy định tại Điều 296 của Công ước và Điều 11 của Phụ lục VII Phán quyết này có tính ràng buộc pháp lý và có tính chung thẩm.
          TÓM TẮT PHÁN QUYẾT CỦA TÒA TRỌNG TÀI VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ VỀ NỘI DUNG CÁC ĐỆ TRÌNH CỦA PHILIPPINES
1. Thông tin cơ bản về Vụ kiện Trọng tài
Vụ kiện Trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc liên quan đến đơn kiện của Philippines đề nghị phán quyết về bốn vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông. Thứ nhất, Philippines muốn Tòa phán quyết về nguồn luật quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trên Biển Đông và hiệu lực của Công ước đối với yêu sách về quyền lịch sử bên trong cái gọi là “đường chín đoạn” của Trung Quốc. Thứ hai, Philippines muốn Tòa phán quyết, liệu một số cấu trúc mà cả Trung Quốc và Philippines cùng yêu sách được xác định chính xác là đảo, đảo đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm hay bãi chìm theo Công ước. Quy chế pháp lý của các cấu trúc này theo Công ước quyết định vùng biển mà những cấu trúc đó có thể có được. Thứ ba, Philippines muốn Tòa phán quyết liệu một số hành động của Trung Quốc ở Biển Đông có vi phạm Công ước không khi can thiệp vào việc Philippines thực thi các quyền chủ quyền và quyền tự do phù hợp với Công ước, cũng như Trung Quốc đã làm tổn hại đến môi trường biển thông qua các hoạt động đánh cá và xây dựng. Cuối cùng, Philippines muốn Tòa phán quyết về một số hoạt động do Trung Quốc tiến hành, cụ thể là việc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa kể từ khi vụ kiện bắt đầu đến nay đã làm mở rộng và làm phức tạp thêm tranh chấp.
Chính phủ Trung Quốc theo quan điểm không chấp nhận và không tham gia vào trình tự tố tụng của vụ kiện.
2. Lập trường của các bên
Philippines đã đưa ra 15 đệ trình trong vụ kiện, yêu cầu Tòa xác định:
1)                Phạm vi các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng trên Biển Đông, cũng giống như của Philippines, không thể vượt ra ngoài những gì được Công ước cho phép;
2)                Các yêu sách của Trung Quốc về các quyền chủ quyền và quyền tài phán, và đối với “các quyền lịch sử”, đối với các vùng biển trên Biển Đông nằm bên trong gọi là “đường chín đoạn” là trái với Công ước và không có hiệu lực pháp lý trong chừng mực mà chúng vượt quá các giới hạn địa lý và thực chất của các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng theo Công ước;
3)                Bãi Scarborough không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa riêng;
4)                Bãi Vành Khăn (Mischief Reef), bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và đá Xu-bi (Subi Reef) đều là các bãi cạn nửa nổi, nửa chìm và chúng không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, đồng thời không phải là các cấu trúc có thể bị thụ đắc thông qua chiếm đóng hay thông qua cách khác;
5)                Bãi Vành Khăn (Mischief Reef) và bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines;
6)                Đá Ga-ven (Gaven Reef) và đá Ken-nan (McKennan Reef) (bao gồm cả đá Tư Nghĩa (Hughes Reef)) là các bãi cạn nửa nổi nửa chìm, không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, nhưng ngấn nước thấp nhất của chúng có thể được dùng để lần lượt xác định đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của đảo Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sin Cowe);
7)                Bãi Gạc Ma (Johnson Reef), đá Châu Viên (Cuarteron Reef) và đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) không thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa;
8)                Trung Quốc đã can thiệp một cách bất hợp pháp tới việc Philippines hưởng và thực thi các quyền chủ quyền của mình liên quan đến các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines;
9)                Trung Quốc đã hành động một cách bất hợp pháp khi không ngăn cản công dân và tàu thuyền của mình khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines;
10)           Trung Quốc đã ngăn cản một cách bất hợp pháp việc ngư dân Philippines theo đuổi sinh kế bằng việc can thiệp vào các hoạt động đánh bắt cá truyền thống tại bãi Scarborough;
11)           Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ theo Công ước trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển ở bãi Scarborough và bãi Cỏ Mây;
12)           Việc Trung Quốc chiếm đóng và tiến hành các hoạt động xây dựng tại bãi Vành Khăn: (a) vi phạm các điều khoản của Công ước liên quan đến các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình; (b) vi phạm nghĩa vụ của Trung Quốc trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển theo Công ước; (c) cấu thành những hành vi bất hợp pháp trong việc cố tình chiếm đoạt theo cách vi phạm Công ước;
13)           Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ theo Công ước trong việc sử dụng các tàu chấp pháp một cách nguy hiểm, gây ra nguy cơ nghiêm trọng về va chạm với tàu Philippines hoạt động xung quanh bãi Scarborough;
14)           Từ khi vụ kiện trọng tài này được bắt đầu vào tháng 1/2013, Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm và mở rộng các tranh chấp thông qua các việc sau: (a) can thiệp vào các quyền hàng hải của Philippines trong vùng nước tại và tiếp giáp bãi Cỏ Mây; (b) ngăn cản việc luân chuyển và tiếp tế cho lực lượng của Philippines đồn trú tại bãi Cỏ Mây; (c) đe dọa đến sức khỏe và đời sống của lực lượng của Philippines đồn trú tại bãi Cỏ Mây;
15)           Trung Quốc phải chấm dứt có thêm các yêu sách và hành động phi pháp.
Trung Quốc không chấp nhận và không tham gia vào vụ kiện này, nhưng tuyên bố lập trường của mình là “Tòa trọng tài không có thẩm quyền đối với vụ kiện này”. Trong Tài liệu lập trường của mình, Trung Quốc đã đưa ra các lập luận sau:
- Bản chất của vụ kiện là chủ quyền lãnh thổ đối với một số cấu trúc biển ở Biển Đông, vấn đề này nằm ngoài phạm vi của Công ước và không liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước;
- Trung Quốc và Philippines đã thống nhất, thông qua các thỏa thuận song phương và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, giải quyết các tranh chấp liên quan thông qua thương lượng. Việc Philippines đơn phương khơi kiện tòa trọng tài này là vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật pháp quốc tế;
- Ngay cả khi giả định rằng nội dung của vụ kiện liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước, các nội dung này là một phần không tách rời của quá trình phân định biển giữa hai quốc gia, như vậy sẽ rơi vào trường hợp tuyên bố năm 2006 của Trung Quốc phù hợp với Công ước, trong đó loại trừ các tranh chấp về phân định biển khỏi cơ chế trọng tài bắt buộc hay các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc khác;
3. Phán quyết của Tòa về Phạm vi thẩm quyền
Để có bức tranh hoàn chỉnh, các quyết định của Tòa về thẩm quyền quyết được tóm tắt chung ở đây.
a. Các vấn đề ban đầu
Tòa nhận thấy rằng cả Philippines và Trung Quốc đều là thành viên Công ước và Công ước không cho phép một Quốc gia tự loại trừ mình khỏi cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong Công ước. Tòa cho rằng việc Trung Quốc không tham gia vào vụ kiện không tước bỏ thẩm quyền của Tòa và Tòa đã được thành lập đúng với  các điều khoản của Phụ lục VII của Công ước, trong đó bao gồm một thủ tục thành lập tòa ngay cả trong trường hợp một bên vắng mặt.
b. Sự tồn tại của một Tranh chấp Liên quan đến Giải thích và Áp dụng Công ước
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng tranh chấp của các Bên thực ra là về chủ quyền lãnh thổ và do đó không phải là một vấn đề liên quan đến Công ước. Tòa chấp nhận rằng tồn tại một tranh chấp giữa các Bên liên quan đến chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông, nhưng Tòa cho rằng các vấn đề được Philippines đệ trình để giải quyết bằng trọng tài lại không liên quan đến chủ quyền. Tòa cho rằng không cần thiết phải ngầm quyết định về chủ quyền để có thể xem xét các Đệ trình của Philippines và rằng việc xem xét đó sẽ không hỗ trợ cho các yêu sách chủ quyền của bất kỳ Bên nào đối với các đảo ở Biển Đông. 
Cuối cùng, Tòa quyết định rằng các Đệ trình của Philippines đều phản ánh một tranh chấp liên quan đến Công ước.
c. Sự tham gia của Bên thứ ba không thể thiếu
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét việc các Quốc gia khác cũng có yêu sách đối với các đảo ở Biển Đông không tham gia vào vụ kiện trọng tài có cản trở thẩm quyền của Tòa hay không. Tòa thấy rằng quyền của các Quốc gia khác sẽ không cấu thành “nội dung chính của phán quyết” – tiêu chuẩn để bên thứ ba có thể được coi là không thể thiếu. Tòa cũng lưu ý thêm rằng vào tháng 12/2014, Việt Nam đã đệ trình một tuyên bố lên Tòa, trong đó Việt Nam tuyên bố rằng “không nghi ngờ gì Tòa có thẩm quyền trong vụ kiện này”. Tòa cũng lưu ý rằng Việt Nam, Malaysia và Indonesia đã dự các phiên tòa về thẩm quyền với tư cách quan sát viên, và không quốc gia nào nêu lên lập luận rằng sự tham gia của mình là không thể thiếu.
d. Điều kiện tiên quyết đối với thẩm quyền
Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông năm 2002 ngăn Philippines khởi kiện trọng tài. Tòa cho rằng Tuyên bố trên là một thỏa thuận chính trị và không ràng buộc về pháp lý, không định ra một cơ chế giải quyết tranh chấp một cách ràng buộc, không loại trừ các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, và do đó không hạn chế thẩm quyền của Tòa theo Điều 281 hay 282.
e. Ngoại lệ và giới hạn của thẩm quyền
Trong phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu Đệ trình của Philippines liên quan đến các quyền lịch sử của Trung Quốc và ‘đường chín đoạn’ có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền các tranh chấp liên quan đến ‘danh nghĩa lịch sử’ theo Điều 298 của Công ước hay không. Tòa đã rà soát nghĩa của cụm từ ‘danh nghĩa lịch sử’ trong luật biển và quyết định là thuật ngữ này dẫn chiếu đến những yêu sách về chủ quyền lịch sử đối với các vịnh và vùng biển gần bờ. Sau khi xem xét các yêu sách và hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, Tòa kết luận rằng Trung Quốc đã yêu sách quyền lịch sử đối với các tài nguyên trong ‘đường chín đoạn’, nhưng không yêu sách danh nghĩa lịch sử đối với các vùng biển ở Biển Đông. Do đó, Tòa kết luận rằng Tòa có thẩm quyền để xem xét các nội dung kiện của Philippines liên quan đến quyền lịch sử và về vấn đề ‘đường chín đoạn’ giữa Philippines và Trung Quốc.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa cũng xem xét liệu các Đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới biển. Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét các bằng chứng về các bãi và đảo mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông và kết luận rằng không một đảo, bãi nào có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Do Trung Quốc không có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines ở quần đảo Trường Sa, Tòa quyết định là các đệ trình của Philippines không phụ thuộc vào việc phân định trước ranh giới.
4. Phán quyết của Tòa liên quan đến Nội dung khởi kiện thực chất của Philippines
a. ‘Đường chín đoạn’ và Yêu sách Quyền lịch sử của Trung Quốc trên các vùng biển thuộc Biển Đông
Tòa nhận thấy rằng yêu sách về quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các tài nguyên là không phù hợp với sự phân bổ chi tiết về quyền và vùng biển của Công ước và kết luận rằng, nếu Trung Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông, những quyền đó đã bị xóa bỏ bởi việc Công ước có hiệu lực ở chừng mực mà chúng không phù hợp với hệ thống các vùng biển của Công ước.
Tòa cũng xem xét hồ sơ lịch sử để xác định liệu Trung Quốc có thật là có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở Biển Đông trước khi Công ước có hiệu lực hay không. Tòa lưu ý rằng có chứng cứ cho thấy người đi biển và ngư dân của Trung Quốc, cũng như của các nước khác, trong lịch sử đã sử dụng các đảo ở Biển Đông, mặc dù Tòa nhấn mạnh rằng Tòa không có thẩm quyền để xác định chủ quyền đối với những đảo đó. Tuy nhiên, Tòa quyết định là trước khi có Công ước, các vùng biển ở Biển Đông bên ngoài vùng lãnh hải về pháp lý đều là một phần của vùng biển quốc tế, tại đó tàu thuyền của bất kỳ Quốc gia nào đều có thể qua lại và đánh cá một cách tự do. Vì vậy, Tòa đã kết luận rằng việc Trung Quốc qua lại và đánh cá trong lịch sử ở vùng biển của Biển Đông đã thể hiện các quyền tự do trên biển cả, thay vì một quyền lịch sử, và rằng không có chứng cứ nào cho thấy rằng trong lịch sử Trung Quốc đã một mình thực hiện việc kiểm soát các vùng biển ở Biển Đông hay ngăn cản các quốc gia khác khai thác những tài nguyên của mình.
Do đó, Tòa kết luận rằng, giữa Philippines và Trung Quốc, không có căn cứ pháp lý nào để Trung Quốc yêu sách các quyền lịch sử đối với tài nguyên, bên ngoài những quyền quy định trong Công ước, tại các vùng biển nằm bên trong ‘đường chín đoạn’.
b. Quy chế của các cấu trúc tại Biển Đông
Theo Điều 13 và 121 của Công ước, các cấu trúc nổi trên mặt nước vào lúc thủy triều lên cao sẽ ít nhất được hưởng lãnh hải 12 hải lý, trong khi những cấu trúc bị chìm khi thủy triều lên sẽ không có quyền có các vùng biển. Tòa Trọng tài ghi nhận rằng nhiều rặng san hô tại Biển Đông đã bị thay đổi nặng nề do việc cải tạo và xây dựng đảo gần đây và nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của nó. Tòa Trọng tài đã chỉ định một chuyên gia thủy văn học để hỗ trợ Tòa trong việc đánh giá các bằng chứng kỹ thuật của Philippines và dựa chủ yếu vào các tài liệu lưu trữ và các đánh giá thủy văn trước đây để đánh giá các cấu trúc này. Tòa Trọng tài nhất trí với Philippines rằng bãi Scarborough, Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập là các cấu trúc nổi và Xu Bi, Tư Nghĩa, Vành Khăn và Cỏ Mây là cấu trúc chìm trong điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài không nhất trí với Phi-líp-pin về quy chế của Ga Ven (phía Bắc) và Ken Nan và kết luận rằng cả hai đều là cấu trúc nổi.
Tòa Trọng tài tiếp theo đã xem xét liệu có cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra các vùng biển ngoài 12 hải lý hay không. Theo Điều 121 của Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và có thềm lục địa, nhưng “các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa”. Tòa Trọng tài thấy rằng quy định này liên hệ chặt chẽ với việc mở rộng quyền tài phán của Quốc gia ven biển với việc hình thành vùng đặc quyền kinh tế và nhằm để ngăn ngừa việc các cấu trúc không lớn có thể tạo ra các vùng biển lớn, mà điều này xâm phạm vào vùng biển của các lãnh thổ có người ở hoặc vùng biển quốc tế và vùng đáy biển vốn là di sản chung của nhân loại. Tòa Trọng tài giải thích Điều 121 và kết luận rằng các quyền có vùng biển của một cấu trúc phụ thuộc vào (a) năng lực khách quan của cấu trúc; (b) trong điều kiện tự nhiên, nó có thể duy trì hoặc (c) một cộng đồng dân cư ổn định hoặc (d) hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào tài nguyên bên ngoài và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác.
Tòa Trọng tài thấy rằng nhiều cấu trúc tại Trường Sa hiện đang được một hoặc nhiều quốc gia ven biển kiểm soát và họ đã xây dựng các cấu trúc và duy trì nhân lực tại chỗ. Tòa Trọng tài thấy rằng sự hiện diện thời nay phụ thuộc vào các nguồn lực và hỗ trợ bên ngoài và thấy rằng nhiều cấu trúc đã bị biến đổi để nâng cao khả năng sinh sống của con người, kể cả thông qua cải tạo đảo và xây dựng các cơ sở hạ tầng như các nhà máy xử lý nước mặn. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc hiện diện của các nhân viên công quyền trên nhiều cấu trúc không chứng minh được khả năng của các cấu trúc này, trong điều kiện tự nhiên, để duy trì cộng đồng cư dân ổn định và cho rằng các bằng chứng lịch sử về việc định cư hoặc đời sống kinh tế có ý nghĩa hơn đối với năng lực khách quan của các cấu trúc. Qua đánh giá hồ sơ lịch sử, Tòa Trọng tài thấy rằng các đảo Trường Sa trong lịch sử từng được các nhóm nhỏ ngư dân từ Trung Quốc và các nước khác sử dụng, và một số công ty khai thác phân chim và đánh cá của Nhật đã có hoạt động tại đây vào những năm 1920 và 1930. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc sử dụng tạm thời các cấu trúc của ngư dân không dẫn đến việc cư ngụ của một cộng đồng ổn định và tất cả các hoạt động kinh tế trong lịch sử đều chỉ có tính chất khai thác. Theo đó, Tòa Trọng tài kết luận rằng tất các cấu trúc nổi tại Trường Sa (bao gồm, ví dụ, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây) đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.
Tòa Trọng tài cũng kết luận rằng Công ước không quy định việc một nhóm các đảo như quần đảo Trường Sa sẽ có các vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất.
c. Các hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông
Sau khi kết luận Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Bãi Cỏ Rong là cấu trúc chìm, tạo thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines và không chồng lấn với bất kỳ vùng biển nào Trung Quốc có thể có, Tòa Trọng tài kết luận rằng Công ước đã rõ ràng trong việc trao quyền chủ quyền cho Philippines đối với các khu vực biển trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Tòa Trọng tài xác định, trên thực tế, Trung Quốc đã (a) can thiệp vào việc thăm dò dầu khí của Philippines tại Bãi Cỏ Rong; (b) chủ ý cấm các tàu Philippines đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và (c) bảo vệ cho và không ngăn ngừa các ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây, và (d) xây dựng các công trình và đảo nhân tạo tại Vành Khăn mà không được sự đồng ý của Philippines. Do vậy Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này.
Tiếp theo Tòa Trọng tài xem xét quyền đánh cá truyền thống tại bãi Scarborough và kết luận rằng ngư dân từ Philippines, cũng như Trung Quốc và các nước khác, đã đánh cá tại bãi Scarborough từ lâu và có quyền đánh cá truyền thống tại khu vực này. Do bãi cạn Scarborough nổi trên mặt nước lúc thủy triều lên, cấu trúc này có quyền có lãnh hải, vùng nước xung quanh cấu trúc này không tạo thành vùng đặc quyền kinh tế và quyền đánh cá truyền thống không bị mất đi do Công ước. Dù Tòa Trọng tài nhấn mạnh rằng Tòa không quyết định về vấn đề chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, Tòa xác định rằng Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi ngăn chặn tiếp cận bãi cạn Scarborough sau tháng 5 năm 2012. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thấy rằng Tòa cũng sẽ có kết luận tương tự đối với quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc nếu Philippines có hành động ngăn cản việc đánh cá của công dân Trung Quốc tại bãi Scarborough.
Tòa Trọng tài xác định rằng việc Trung Quốc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo gần đây tại bảy cấu trúc tại Trường Sa đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hô và Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo Điều 192 và 194 của Công ước trong việc bảo tồn và bảo vệ môi trường biển đối với các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sinh sống của các loài động vật bị đe dọa, sắp cạn kiệt. Đồng thời Tòa Trọng tài cũng xác định rằng ngư dân Trung Quốc đã thực hiện việc khai thác động vật bị đe dọa như rùa biển, san hô và trai khổng lồ ở quy mô lớn tại Biển Đông, sử dụng các biện pháp gây hủy hoại nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hộ. Tòa Trọng tài xác định rằng chính quyền Trung Quốc đã nhận thức được các hành vi này và không thực hiện nghĩa vụ cẩn trọng theo Công ước để ngăn chặn.
d. Làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các Bên
Trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem xét liệu các hoạt động cải tạo đất quy mô lớn gần đây và xây dựng các đảo nhân tạo của Trung Quốc tại 7 cấu trúc tại Trường Sa từ khi bắt đầu thủ tục trọng tài có làm gia tăng tranh chấp giữa các Bên. Tòa Trọng tài nhắc lại rằng các bên tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp có nghĩa vụ kiềm chế việc làm trầm trọng thêm hoặc mở rộng một tranh chấp hoặc các tranh chấp về các vấn đề đang được thụ lý. Tòa Trọng tài thấy rằng Trung Quốc đã (a) xây dựng một đảo nhân tạo lớn tại Vành Khăn, một cấu trúc lúc chìm lúc nổi nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines; (b) gây ra hủy hoại lâu dài, không thể phục hồi đối với hệ sinh thái rặng san hộ và (c) phá hủy lâu dài các chứng cứ về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc này. Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ về kiềm chế làm trầm trọng thêm và kéo dài tranh chấp giữa các Bên trong khi chờ quá trình xét xử.
e. Hành vi tương lai của các Bên
Cuối cùng, Tòa Trọng tài xem xét đề nghị của Philippines về việc đưa ra tuyên bố rằng, từ nay về sau, Trung Quốc cần tuân thủ các quyền và quyền tự do của Philippines và tuân thủ các nghĩa vụ của nước này theo Công ước. Về vấn đề này, Tòa Trọng tài thấy rằng cả Philippines và Trung Quốc đều đã nhiều lần thừa nhận Công ước và các nghĩa vụ chung về thiện chí trong xác định và điều chỉnh các hành vi của mình. Tòa Trọng tài xét rằng cốt lõi của tranh chấp trong vụ kiện này không nằm ở ý định của Trung Quốc hay Philippines trong việc xâm phạm quyền lợi pháp lý của bên kia, mà chính là do có sự hiểu khác nhau cơ bản về các quyền của nước mình theo Công ước đối với các vùng nước thuộc Biển Đông. Tòa Trọng tài nhắc lại rằng trong luật pháp quốc tế có nguyên tắc cơ bản là “không thiện chí” không thể tự suy diễn và thấy rằng Điều 11 của Phụ lục VII đã quy định “phán quyết…sẽ được các bên trong tranh chấp tuân thủ”. Vì vậy, Tòa Trọng tài thấy không cần thiết phải đưa ra tuyên bố nào nữa.

Toàn văn phán quyết:
 Thông cáo báo chí của PCA: