Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

Tai nạn máy bay ở thung lũng Ô Kha năm 1992: 1. Một mình giữa những người chết

Tôi sẽ gắng cầm cự một tuần. Tôi cần có nước, và thực phẩm. Nếu không tôi sẽ chết. Như những người khác, như Pasje. Tôi sẽ bò vào rừng, nếu tới thứ Bảy không có ai đến. Đó là kế hoạch của tôi. Phải sống sót cho đến thứ Bảy. Sáu ngày nữa.

Sáng thứ Bảy, ngày 14/11/1992, chiếc máy bay Yak40, số hiệu VN-A449 của Việt Nam Airlines thực hiện chuyến bay VN-474 từ sân bay Tân Sơn Nhất đi Nha Trang. Khoảng 6 phút trước khi hoàn thành chuyến bay, máy bay đâm vào núi ở thung lũng Ô Kha, xã Sơn Trung (Khánh Sơn, Khánh Hòa). Trong số 31 người trên máy bay, duy nhất Annette Herfkens sống sót.
Annette Herfkens sinh năm 1961 tại Maracaibo, Venezuela, cha mẹ là người Hà Lan. Bà lớn lên ở Hà Lan, theo học Đại học Leiden, sau đó làm việc trong ngành ngân hàng. Tháng 11/1992, Annette đến Việt Nam để đi nghỉ cùng chồng chưa cưới, một thương nhân Hà Lan tên là Willem van der Pas. Sáng ngày 14/11/1992, họ cùng đi trên chiếc máy bay Yak40, số hiệu VN-A449. Annette đã trải qua gần tám ngày một mình trong rừng, giữa những người chết, và sống sót nhờ nước mưa. Trong cuốn sách “Turbulence, A Survival Storry” (Tạm dịch: Sự hỗn mang, một câu chuyện sinh tồn), xuất bản tháng 1/2014, Annette mô tả cách bà sống sót, chuyện bà được giải cứu và chuyến quay lại Việt Nam lần đầu tiên năm 2005, để leo lên thung lũng Ô Kha, nơi bà từng phải đối mặt với cái chết…


  Annette tại bệnh viện ở Singapore, cuối tháng 11/1992 - ảnh tư liệu

Kinh hoàng
Đây là lần đầu tiên tôi đến Việt Nam, để đi nghỉ cùng Pasje - đó là cách tôi gọi Willem van der Pas, bạn trai đã 13 năm của tôi. Pasjie đã đến Việt Nam từ 6 tháng trước, để mở 2 chi nhánh ngân hàng. Sáng sớm ngày 14/11/1992, khi tới trước chiếc máy bay sẽ chở chúng tôi, tôi không thể tin nó nhỏ như thế. "Em sẽ không ở đó, em không thể!" Tôi kêu lên kinh hoàng. “Anh biết em có thể, cho anh, cho chúng ta”. Pasje thuyết phục tôi.  
Trên máy bay, tôi hướng ánh mắt vào chiếc đồng hồ của Pasje, chiếc đồng hồ Rolex 1940, tôi mua cho anh ở Washington DC vào năm ngoái, khi tôi 30 tuổi. Khi đó anh nói, anh muốn lập gia đình và cho tôi một thời hạn… Thời gian trôi thật chậm. Bốn mươi chín phút. Còn sáu phút nữa máy bay sẽ hạ cánh. Bỗng nhiên chúng tôi bị rơi. Cú xóc kinh hãi. “Anh không thích điều này”. Pasje nhìn thẳng vào tôi, nói một cách lo lắng. Chúng tôi lại rơi. Lần này lâu hơn. Ai đó thét lên. Pasje nắm lấy tay tôi…
          Tôi tỉnh dậy, thấy cây rừng rậm rạp qua một lỗ hổng khổng lồ đằng trước thân máy bay. Không gian vừa im lặng kỳ quái vừa ồn ào kỳ lạ. Tôi vẫn đang ở trong máy bay, mắc kẹt dưới một cái ghế và bị một cái xác đè lên. Tôi cố gắng đẩy nó ra, nhưng không thể. Tôi rút mạnh chân tôi ra khỏi dưới ghế. Rồi tôi thấy Pasje phía bên dãy bên kia. Anh ấy vẫn đang ngồi trên ghế, mà bằng cách nào đó đã quay ngược lại. Trên môi anh ấy nở nụ cười. Nụ cười mỉm ngọt ngào. Anh ấy đã chết.
Chắc chẳn là tôi đã bị sốc, bởi đột nhiên tôi thấy mình đang ngồi bên ngoài cabin, ở trên mặt đất. Khắp người đau đớn. Tôi không thể di chuyển. Chiếc váy của tôi mất tiêu. Chân trái của tôi có một vết thương hở rộng. Nhưng tệ nhất là cẳng chân phải của tôi: Khúc xương xanh dài bốn inch đâm ra qua lớp thịt. Tôi chuyển động đột ngột và cảm thấy hết sức đau đớn ở hông…
          Có vài người nằm trên sườn núi, giữa đống hỗn độn. Tôi có thể nghe thấy một số hành khách rên rỉ trong máy bay. Khoảng 3 mét bên phải tôi, một cô gái Việt Nam đang kêu rên lớn tiếng. Cao hơn một chút là cơ thể không còn sự sống của một người đàn ông. Sau đó, tôi nhận ra rằng tôi đang ngồi ngay bên cạnh một ai đó, một người đàn ông Việt Nam. Còn sống và nói được.
“Đừng lo, họ sẽ đến tìm chúng ta”, ông ấy nói, phát âm chữ r như chữ l. Tôi đột nhiên nhận ra tôi chỉ đang mặc quần lót. Tôi xấu hổ nhìn xuống dưới chân, chỗ khúc xương xanh đang thòi ra khỏi thịt. Người đàn ông mở chiếc cặp vuông nhỏ mà ông đang ôm, lấy đưa tôi một chiếc quần dài, một phần của một bộ vest. Đau vô cùng, khi tôi kéo chiếc quần dài qua vết thương. Vùng xương chậu của tôi cảm giác như bị nghiền vụn. Tôi cắn chặt răng và chậm rãi, đau đớn kéo quần qua hông. Tôi cảm ơn ông ấy lần nữa.
Tôi thấy được trấn an bởi lời nói của ông ấy. Bởi sự hiện diện của ông ấy. Trong khoảng vài tiếng sau đó, chúng tôi nói chuyện vài lần. Tôi có thể thấy ông ấy yếu dần. “Xin đừng chết,” tôi van nài ông ấy. “Hãy cố gắng kiếm chút nước”. “Tôi đã có cái để uống rồi”, ông ấy trả lời, giọng còn yếu ớt hơn. “Ông cho tôi một ít nhé?” Tôi hỏi. Ông ấy nhắm mắt lại. “Làm ơn đừng chết, đừng để tôi ở đây một mình!” Tôi gần như hét lên. Nhưng ông ấy thở rất khó khăn. Tôi nhìn cuộc sống rời bỏ ông ấy. Không còn âm thanh nào từ cô gái người Việt đã rên rỉ nặng nề trước đó. Không có âm thanh, chuyển động từ bất kỳ hành khách nào khác.
Mọi người đã chết. Tôi đang ngồi đây, trong một khu rừng rậm. Một mình. Giúp con, Chúa ơi. Giúp con!... Tôi nhớ tới người đàn ông đã chết, cách ông ấy nói chuyện, cách ông ấy không nói. Và cả cách quan tâm, khi ông ấy đưa cho tôi chiếc quần dài của ông ấy. Cảm ơn Chúa vì điều đó: Chiếc quần dài bảo vệ tôi khỏi lũ côn trùng kinh khủng! 


Phần đầu của chiếc Yak40 VN-A449 bị nạn - ảnh tư liệu

Ngày thứ hai

Mặt trời chiếu sáng khi tôi thức dậy. Khát. Người đàn ông đã chết ở ngay bên cạnh tôi, mắt mở hé. Xa hơn về bên phải, tôi nhìn thấy thi thể của cô gái Việt Nam. Tóc của cô tỏa sáng trong ánh mặt trời… Tôi nhìn vào bàn tay của tôi. Những vật tròn đen là gì? Ôi trời, vắt. Tôi chà hai mu bàn tay vào nhau để chúng rơi ra. Tôi khát, rất khát nước. Đột nhiên trời mưa. Mưa rào nặng hạt làm các vết thương của tôi đau nhói. Tôi vui mừng hớp những giọt nước mưa, những giọt cứu sinh. Quần áo tôi ướt đẫm. Rồi mặt trời lại xuất hiện, bất ngờ như lúc mưa rơi. Những tia nắng lọt qua kẽ lá không làm tôi đỡ lạnh. Tôi lạnh. Rất lạnh…
Tôi nghĩ, cực hình khi phải ngồi bên người đàn ông dã chết sẽ sớm đến. Tôi phải di chuyển ra xa, bằng cách nào đó. Tôi nghĩ, ông ta không khơi dậy sự thèm ăn của tôi, không như đội bóng bầu dục bị rơi máy bay ở vùng núi Andes, ăn thịt lẫn nhau. Tôi khát nước, nhưng không khát máu.
          Tôi sẽ gắng cầm cự một tuần. Tôi cần có nước, và thực phẩm. Nếu không tôi sẽ chết. Như những người khác, như Pasje. Tôi sẽ bò vào rừng, nếu tới thứ Bảy không có ai đến. Đó là kế hoạch của tôi. Phải sống sót cho đến thứ Bảy. Sáu ngày nữa.
                  
 Khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn máy bay ở thung lũng Ô Kha - ảnh tư liệu


Còn nhớ đó là ngày thứ 10 tính từ sau 14/11/1992, tôi và vài đồng nghiệp ra sân đậu nơi chiếc phi cơ nhỏ chở Annette vừa từ Nha Trang về để chuyển qua chiếc chuyên cơ của tổ chức cứu nạn quốc tế đi Singapore. Cửa đuôi chiếc máy bay được mở, cô nằm trên cáng đắp một chiếc chăn mỏng để lộ khuôn mặt. Tôi không biết tả cô thế nào, bởi tôi không thể đọc được bất kỳ điều gì từ đôi mắt xanh nhạt trên khuôn mặt nhỏ nhắn xanh xao ấy. Cô nhìn mọi người hoặc đơn giản là mở rộng mắt, hoàn toàn vô hồn, không cảm xúc, không đau đớn, không hồi sinh. Đôi mắt và khuôn mặt Annette là sự mô tả ám ảnh nhất cái gọi là 'không còn cảm giác' mà tôi đã gặp cho đến tận bây giờ.
          Blogger Lana, một nhân viên điều hành bay tại sân bay Tân Sơn Nhất

Đầu năm 1993, tôi nhận được một bưu kiện của Việt Nam Airlines. Nó chứa đồ đạc của chúng tôi, được tìm thấy trong rừng. Cả gia đình tôi quây quanh khi tôi mở hộp. Tay tôi run rẩy khi tôi mở gói đầu tiên bên trong. Chiếc đồng hồ Rolex 1940 của Pasje! Nó đã dừng lại ở 12:00. Đồ đạc của tôi ở trong một hộp khác: ba gói thuốc lá Philip Morris “siêu nhẹ”, bật lửa BIC, và máy ảnh. Đó một khoảnh khắc đầy cảm xúc. Máy ảnh vẫn tốt, có cuộn phim bên trong. Tôi đã đi tráng phim, rửa ảnh. Những hình ảnh hơi vàng nhưng rõ ràng. Ảnh của Numachi và tôi ở Tokyo, và hình ảnh cuối cùng của Pasje, do tôi chụp trên ban công phòng khách sạn của chúng tôi, ngày 13 tháng 11 năm 1992.
Annette Herfkens
                  
Nguyễn Đình Quân – Huy Toàn
                                                                   (lược dịch)


1 nhận xét: