Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013

Chuyện Trường Sa 1988, của người yêu Trường Sa: VI - Gửi lòng ra nơi sóng đã cuốn Tuấn đi


Gần 24 năm sau khi liệt sĩ Võ Đình Tuấn hy sinh khi bảo vệ đảo Gạc Ma, huyện đảo Trường Sa, người yêu của anh đã nhờ phóng viên gửi nhiều kỷ vật ra nơi sóng đã cuốn Tuấn đi.

Trao gửi tấm lòng
Ngày 26-5-2011, báo Khánh Hòa có bài viết “Muốn ra nơi sóng đã cuốn Tuấn đi”, kể về chuyện tình của cô giáo Nguyễn Thị Dung với liệt sĩ Võ Đình Tuấn, một trong 64 người lính đã hy sinh ở khu vực các đảo Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin của quần đảo Trường Sa, ngày 14-3-1988. Chị Dung ước nguyện được một lần ra tận nơi anh Tuấn hy sinh, “Muốn thấy ngọn sóng nào đã cuốn Tuấn ra đi”, muốn gửi cho Tuấn một số kỷ vật. Nếu không được ra Trường Sa, chị muốn nhờ tôi thực hiện ước nguyện ấy.
Ngày 10-12-2011, được Tòa soạn cử đi cùng đoàn công tác của Vùng 4 Hải quân và Lữ đoàn 146 ra thăm, tặng quà Tết cho quân dân huyện đảo Trường Sa, tôi báo tin cho Dung. Trưa 12-12, Dung đến nhà tôi. Chị mang theo một hộp nhựa nhỏ trong suốt, phía nắp dán mảnh giấy trắng, ghi “12-12-2011 - Thương gửi Võ Đình Tuấn - Dung” và bức ảnh Dung thời sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang. Trong hộp, Dung xếp những trang nhật ký, những lá thư, mấy bài thơ chị viết cho Tuấn, khá lâu sau khi được tin anh đã hy sinh. Mặt kia của hộp dán bức ảnh hai người chụp chung trong dịp Noel năm 1987, được ép plastic. “Đây là bức ảnh Tuấn chưa từng được thấy trước lúc hy sinh” - Dung nghẹn ngào nói. Chị dán kỹ chiếc hộp bằng băng keo để khỏi thấm nước, nhờ tôi chuyển đến cho Tuấn ở nơi anh và đồng đội đã ngã xuống. Ngần ngừ một lúc, Dung mượn tôi chiếc máy ghi âm. Chị muốn Tuấn nghe giọng nói của mình...

Trong dịp này, lễ tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ hy sinh ngày 14-3-1988 được thực hiện trên tàu HQ 936, chở đoàn thăm cụm đảo giữa huyện đảo Trường Sa. Tôi không thể dự buổi lễ này, vì được phân công đi theo tàu HQ 996, thăm các đảo phía Bắc Trường Sa. Thấy trong nhóm nhà báo đi tàu HQ 936 có hai nhà báo nữ trẻ là Hồng Nhạn, báo Ninh Thuận và Phương Duyên, báo Gia Lai, tôi chuyển cho họ các kỷ vật của chị Dung. Tôi tin, hai cô gái trẻ sẽ đồng cảm với Dung, sẽ nâng niu trân trọng tấm lòng của một người phụ nữ dành cho người yêu đã hy sinh. Thượng tá Nguyễn Văn Thư, Phó Chính ủy Lữ đoàn 146, Trưởng đoàn công tác trên tàu HQ 936 hứa, sẽ giúp Hồng Nhạn và Phương Duyên thực hiện ước nguyện của Dung.
Đúng 8 giờ sáng 4-1-2012, Hồng Nhạn gọi điện thoại, cho tôi nghe tiếng còi tàu HQ 936 rền vang. Lễ tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ hy sinh ngày 14-3-1988 bắt đầu. Trên đảo Đá Lớn A, tôi đứng cúi đầu về hướng Đông Nam, nơi có vùng biển Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin. Điện thoại của tôi hiện lên tin nhắn của Dung: “Em gửi lòng mình và nước mắt vào mênh mông biển đảo Gạc Ma. Xin được tưởng niệm Tuấn và tất cả các chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại giữa biển khơi vì Tổ quốc”.

Em đã đến nơi chị mong được đến

Có phải ngẫu nhiên hay sắp đặt mà tôi, một người không quen biết với chị Dung, lại là người chuyển tình yêu của chị đến liệt sĩ Võ Đình Tuấn, giữa biển khơi mênh mông. Sự kiện Gạc Ma diễn ra vào năm 1988, năm sinh của tôi, ngày chị Dung viết lại lá thư cho anh Tuấn cũng chính là ngày sinh của tôi, 28-8.
Ngày 15-12-2011, khi được trao gửi kỷ vật của chị Dung, tôi và Phương Duyên đã hứa, sẽ không phụ lòng chị. Lên đảo Phan Vinh, chúng tôi tìm một khối san hô và một vỏ ốc thật đẹp, làm bệ và nắp che cho hộp kỷ vật của chị Dung. Các anh trong đoàn công tác giúp chúng tôi buộc chặt tất cả với nhau, để khi được thả xuống biển, kỷ vật sẽ đến được với anh Tuấn, ở lại với anh.
Sáng 4-1-2012, biển trời trước đảo Cô Lin khá u ám, sóng lớn. Nhưng trước giờ làm lễ tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ hy sinh ngày 14-3-1988, trời hửng nắng soi xuống mặt biển xanh, sóng dịu hơn. Anh Văn Điệp, một sĩ quan trong đoàn công tác đặt kỷ vật của chị Dung và tờ báo Khánh Hòa có bài viết “Muốn ra nơi sóng đã cuốn Tuấn đi” lên ban thờ. Kể từ lúc thắp hương cho các hương hồn liệt sĩ, tôi đã để nước mắt lăn dài trên má. Sự hy sinh của anh Tuấn và đồng đội đã cho thế hệ chúng tôi được hưởng cuộc sống thanh bình hôm nay. Tôi hiểu hơn về sự chờ đợi, về khát khao của chị Dung được đến nơi này, nơi anh Tuấn đã hy sinh. Nước mắt cũng đã rơi trên gương mặt của nhiều cán bộ, chiến sĩ Hải quân và các phóng viên trên tàu HQ 996.

Sau khi vòng hoa tưởng niệm được thả xuống biển, tôi thầm thì: “Chị Dung ơi, em đã đến nơi mà chị mong được đến, em sẽ trao cho anh Tuấn kỷ vật của chị”. Tôi mở đoạn ghi âm, để những lời nghẹn ngào của chị Dung vang đến anh Tuấn. “Tuấn à! Dung gửi Tuấn những kỷ vật của hai đứa mình từ ngày ấy... Mong rằng hương hồn Tuấn sẽ nhận được những gì mình gửi hôm nay. Trái tim Dung luôn nhường bước cho Tuấn, luôn luôn đợi Tuấn. Dung biết, hôm nay Tuấn sẽ cảm nhận được chút lòng của mình. Dung muốn nói, Dung sẽ mãi nhớ Tuấn, và yêu Tuấn”. Nâng gói kỷ vật lên ngang mày, tôi quỳ bên mạn tàu, khấn nhỏ với anh Tuấn, mong anh và đồng đội sẽ hiểu được tấm lòng của chúng tôi. Trong phút chốc, tôi thấy mình như chính là chị Dung! Tôi hôn lên kỷ vật của chị Dung trước khi thả về với biển, cùng với tờ báo. Biển thăm thẳm ôm trọn tất cả. Buổi xế chiều hôm ấy, trời đang ráo tạnh bỗng nổi một cơn mưa rào...
Tình yêu của chị Dung và liệt sĩ Võ Đình Tuấn đã cho tôi, một người trẻ, tin sự vĩnh cửu của tình yêu không chỉ có trong cổ tích.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét