Gần 24 năm
sau khi liệt sĩ Võ Đình Tuấn hy sinh khi bảo vệ đảo Gạc Ma, huyện đảo Trường
Sa, người yêu của anh đã nhờ phóng viên gửi nhiều kỷ vật ra nơi sóng đã cuốn
Tuấn đi.
Trao gửi tấm lòng
Ngày 26-5-2011, báo Khánh Hòa có bài viết “Muốn ra nơi
sóng đã cuốn Tuấn đi”, kể về chuyện tình của cô giáo Nguyễn Thị Dung với liệt
sĩ Võ Đình Tuấn, một trong 64 người lính đã hy sinh ở khu vực các đảo Gạc Ma,
Len Đao, Cô Lin của quần đảo Trường Sa, ngày 14-3-1988. Chị Dung ước nguyện
được một lần ra tận nơi anh Tuấn hy sinh, “Muốn thấy ngọn sóng nào đã cuốn Tuấn
ra đi”, muốn gửi cho Tuấn một số kỷ vật. Nếu không được ra Trường Sa, chị muốn
nhờ tôi thực hiện ước nguyện ấy.
Ngày 10-12-2011, được Tòa soạn cử đi cùng đoàn công
tác của Vùng 4 Hải quân và Lữ đoàn 146 ra thăm, tặng quà Tết cho quân dân huyện
đảo Trường Sa, tôi báo tin cho Dung. Trưa 12-12, Dung đến nhà tôi. Chị mang
theo một hộp nhựa nhỏ trong suốt, phía nắp dán mảnh giấy trắng, ghi “12-12-2011
- Thương gửi Võ Đình Tuấn - Dung” và bức ảnh Dung thời sinh viên trường Cao
đẳng Sư phạm Nha Trang. Trong hộp, Dung xếp những trang nhật ký, những lá thư,
mấy bài thơ chị viết cho Tuấn, khá lâu sau khi được tin anh đã hy sinh. Mặt kia
của hộp dán bức ảnh hai người chụp chung trong dịp Noel năm 1987, được ép
plastic. “Đây là bức ảnh Tuấn chưa từng được thấy trước lúc hy sinh” - Dung
nghẹn ngào nói. Chị dán kỹ chiếc hộp bằng băng keo để khỏi thấm nước, nhờ tôi
chuyển đến cho Tuấn ở nơi anh và đồng đội đã ngã xuống. Ngần ngừ một lúc, Dung
mượn tôi chiếc máy ghi âm. Chị muốn Tuấn nghe giọng nói của mình...
Trong dịp này, lễ tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ hy
sinh ngày 14-3-1988 được thực hiện trên tàu HQ 936, chở đoàn thăm cụm đảo giữa
huyện đảo Trường Sa. Tôi không thể dự buổi lễ này, vì được phân công đi theo
tàu HQ 996, thăm các đảo phía Bắc Trường Sa. Thấy trong nhóm nhà báo đi tàu HQ 936
có hai nhà báo nữ trẻ là Hồng Nhạn, báo Ninh Thuận và Phương Duyên, báo Gia
Lai, tôi chuyển cho họ các kỷ vật của chị Dung. Tôi tin, hai cô gái trẻ sẽ đồng
cảm với Dung, sẽ nâng niu trân trọng tấm lòng của một người phụ nữ dành cho
người yêu đã hy sinh. Thượng tá Nguyễn Văn Thư, Phó Chính ủy Lữ đoàn 146,
Trưởng đoàn công tác trên tàu HQ 936 hứa, sẽ giúp Hồng Nhạn và Phương Duyên
thực hiện ước nguyện của Dung.
Đúng 8 giờ sáng 4-1-2012, Hồng Nhạn gọi điện thoại,
cho tôi nghe tiếng còi tàu HQ 936 rền vang. Lễ tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ
hy sinh ngày 14-3-1988 bắt đầu. Trên đảo Đá Lớn A, tôi đứng cúi đầu về hướng
Đông Nam, nơi có vùng biển Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin. Điện thoại của tôi hiện lên
tin nhắn của Dung: “Em gửi lòng mình và nước mắt vào mênh mông biển đảo Gạc Ma.
Xin được tưởng niệm Tuấn và tất cả các chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại giữa biển
khơi vì Tổ quốc”.
Em đã đến nơi chị mong được đến
Có phải ngẫu nhiên hay sắp đặt mà tôi, một người không
quen biết với chị Dung, lại là người chuyển tình yêu của chị đến liệt sĩ Võ
Đình Tuấn, giữa biển khơi mênh mông. Sự kiện Gạc Ma diễn ra vào năm 1988, năm
sinh của tôi, ngày chị Dung viết lại lá thư cho anh Tuấn cũng chính là ngày
sinh của tôi, 28-8.
Ngày 15-12-2011, khi được trao gửi kỷ vật của chị Dung,
tôi và Phương Duyên đã hứa, sẽ không phụ lòng chị. Lên đảo Phan Vinh, chúng tôi
tìm một khối san hô và một vỏ ốc thật đẹp, làm bệ và nắp che cho hộp kỷ vật của
chị Dung. Các anh trong đoàn công tác giúp chúng tôi buộc chặt tất cả với nhau,
để khi được thả xuống biển, kỷ vật sẽ đến được với anh Tuấn, ở lại với anh.
Sáng 4-1-2012, biển trời trước đảo Cô Lin khá u ám,
sóng lớn. Nhưng trước giờ làm lễ tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ hy sinh ngày
14-3-1988, trời hửng nắng soi xuống mặt biển xanh, sóng dịu hơn. Anh Văn Điệp,
một sĩ quan trong đoàn công tác đặt kỷ vật của chị Dung và tờ báo Khánh Hòa có
bài viết “Muốn ra nơi sóng đã cuốn Tuấn đi” lên ban thờ. Kể từ lúc thắp hương
cho các hương hồn liệt sĩ, tôi đã để nước mắt lăn dài trên má. Sự hy sinh của
anh Tuấn và đồng đội đã cho thế hệ chúng tôi được hưởng cuộc sống thanh bình
hôm nay. Tôi hiểu hơn về sự chờ đợi, về khát khao của chị Dung được đến nơi
này, nơi anh Tuấn đã hy sinh. Nước mắt cũng đã rơi trên gương mặt của nhiều cán
bộ, chiến sĩ Hải quân và các phóng viên trên tàu HQ 996.
Sau khi vòng hoa tưởng niệm được thả xuống biển, tôi
thầm thì: “Chị Dung ơi, em đã đến nơi mà chị mong được đến, em sẽ trao cho anh
Tuấn kỷ vật của chị”. Tôi mở đoạn ghi âm, để những lời nghẹn ngào của chị Dung
vang đến anh Tuấn. “Tuấn à! Dung gửi Tuấn những kỷ vật của hai đứa mình từ ngày
ấy... Mong rằng hương hồn Tuấn sẽ nhận được những gì mình gửi hôm nay. Trái tim
Dung luôn nhường bước cho Tuấn, luôn luôn đợi Tuấn. Dung biết, hôm nay Tuấn sẽ
cảm nhận được chút lòng của mình. Dung muốn nói, Dung sẽ mãi nhớ Tuấn, và yêu
Tuấn”. Nâng gói kỷ vật lên ngang mày, tôi quỳ bên mạn tàu, khấn nhỏ với anh
Tuấn, mong anh và đồng đội sẽ hiểu được tấm lòng của chúng tôi. Trong phút
chốc, tôi thấy mình như chính là chị Dung! Tôi hôn lên kỷ vật của chị Dung
trước khi thả về với biển, cùng với tờ báo. Biển thăm thẳm ôm trọn tất cả. Buổi
xế chiều hôm ấy, trời đang ráo tạnh bỗng nổi một cơn mưa rào...
Tình yêu của chị Dung và liệt sĩ Võ Đình Tuấn đã cho
tôi, một người trẻ, tin sự vĩnh cửu của tình yêu không chỉ có trong cổ tích.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét