Không có chuyện “chiếm lại Len
Đao”, không có chuyện “không quân Việt Nam xuất kích giành lại Len Đao”, bởi vì
từ khi cắm cờ lên đá Len Đao vào sáng sớm ngày 14/3/1988, quân ta chưa bao giờ
để mất nơi này.
Ngày 11/3/1988, tàu HQ-605 hoàn thành chuyến
tiếp vận cho các đảo chìm vừa được quân ta đóng giữ là Tốc Tan, Núi Le…, trên
đường về Cam Ranh đã đến đảo Đá Đông. Nước ngọt, lương thực thực phẩm đã chuyển
hết cho các đảo, tàu chỉ giữ lại lượng rất ít, đủ dùng cho mấy ngày hành quân
về bờ. Bất ngờ, Đại úy Lê Lệnh Sơn, thuyền trưởng tàu HQ-605 nhận được mật lệnh
của Phó đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Hải quân kiêm Tư lệnh Vùng 4 Hải Quân,
phải cấp tốc đóng giữ đảo Len Đao vào sáng sớm ngày 14/3/1988. Tàu HQ-605 đã
khẩn trương thực hiện mệnh lệnh, cắm được quốc kỳ Việt Nam trên bãi đá Len Đao vào sáng
sớm ngày 14/3/1988. Mặc dù sau đó tàu HQ-605 bị các tàu Trung Quốc bắn cháy rồi
chìm, trung úy thuyền phó Phan Hữu Doan và trung sĩ báo vụ Bùi Duy Hiển hy
sinh, sĩ quan chiến sĩ của tàu vẫn bình tĩnh, cùng nhau đưa thương binh, liệt sĩ
về đảo Sinh Tồn an toàn…
Gần đây có một
số bài báo đưa thông tin, khoảng 1 tháng sau sự kiện 14/3/1988 hải quân Việt Nam đã
tổ chức giành lại đá Len Đao. Có báo còn giật tít “Không quân Việt Nam xuất
kích giành lại đảo Len Đao”, theo đó 35 lính công binh và 7 lính hải quân do Tư
lệnh Vùng 4 Hải quân chỉ huy được trang bị súng 12ly7, DKZ… đổ lên Len Đao
trong đêm. Sáng ra, Trung Quốc cho 7 tàu chiến và vô số xuồng nhỏ bao vây, uy
hiếp, nhưng quân ta kiên quyết bám đảo. Tình hình đang căng thẳng thì trên trời
xuất hiện 7 máy bay SU–22 của Việt Nam bay từ đất liền ra, tàu Trung Quốc bỏ
chạy… Thế là ta chiếm lại được đá Len Đao.
Sự thực không phải
như vậy.
Đại tá Nguyễn
Dân, trong chiến dịch CQ-88 là trung tá, Phó tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân,
chỉ huy trưởng khu vực II Trường Sa (cụm Sinh Tồn, bao gồm Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin),
người đã có mặt ở Len Đao từ chiều ngày 14/3/1988 trên tàu HQ-614 khẳng định, không
có chuyện 7 chiếc SU-22 cùng lúc xuất hiện để hỗ trợ việc đóng giữ đá Len Đao. Chỉ
có vài lần máy bay vận tải AN-26 bay ra khu vực này trong các ngày 15/3/1988, 16/3/1988.
Trong mấy tháng sau sự kiện 14/3/1988, ta giữ Len Đao bằng sự hiện diện của tàu
HQ-614 và một số tàu khác, cho đến khi ta bí mật tổ chức đưa vật liệu lên Len
Đao, nhanh chóng làm nhà cao chân.
Trung tá Nguyễn Văn Dân cắm cờ ở đá Len Đao, ngày 22/4/1988
Theo sách “Truyền
thống đoàn Trường Sa anh hùng” do NXB Trẻ xuất bản năm 1995: Khu vực 2 còn phức
tạp, nên kế hoạch đóng giữ làm nhà ở Cô Lin, Len Đao yêu cầu phải bảo đảm bí
mật, khẩn trương, tránh đụng độ, không cho địch biết ý định. Đồng chí Thư (Đại
tá Lê Văn Thư, Chỉ huy trưởng Vùng 4) và đồng chí Phạm Công Phán (Đại tá Phạm
Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 – tức là đoàn Trường Sa) được giao nhiệm
vụ tổ chức thi công làm nhà ở 2 đảo này. Tàu HQ-462 từ Cô Lin đến Len Đao ngày
28/6/1988, ủi vào bãi cạn đúng quy định. Sáng ngày 28/6, đồng chí Thư lên Len
Đao kiểm tra vị trí làm nhà. Trong quá trình làm, một số tàu Trung Quốc vẫn đe
dọa khiêu khích, có khi chúng vào cách đảo 180m. Ta dùng loa yêu cầu không được
gây khó dễ cho ta, sau đó chúng bỏ đi. Ngày 7/7 ta làm xong nhà ở Len Đao, ngày
9/7 bàn giao cho lực lượng bảo vệ đảo. Đến ngày 10/7 làm xong nhà ở Cô Lin…
Như vậy, hôm nay
vừa đúng 28 năm, ngày chiếc nhà cao chân đầu tiên ở đảo chìm Len Đao được hoàn
thành xây dựng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét