La Hay, 12 tháng 7 năm 2016
Toà Trọng
tài ban hành phán quyết
Phán quyết được Toà Trọng tài thành lập theo Phụ
lục VII, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (sau đây gọi là “Công ước”) trong vụ kiện giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa hoàn toàn nhất trí thông qua và ban hành.
Vụ kiện trọng tài này liên quan đến vai trò của
các quyền lịch sử và nguồn xác định quyền
hưởng các
vùng biển tại Biển Đông, quy chế của một số cấu trúc cụ thể và các vùng biển của các cấu trúc này, và tính hợp pháp của các hành vi của
Trung Quốc mà Philippines cho là vi phạm Công ước. Phù
hợp các giới hạn của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công
ước, Toà Trọng tài đã nhấn mạnh Toà không phán quyết các vấn đề nào liên quan đến chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đất
liền và không tiến hành phân định bất kỳ một ranh giới trên biển nào giữa các
bên của vụ kiện.
Theo quy định tại Điều 296 của Công ước và Điều 11
của Phụ lục VII Phán quyết này có tính ràng buộc pháp lý và có tính chung thẩm.
TÓM TẮT PHÁN QUYẾT CỦA TÒA TRỌNG TÀI VỀ
THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ VỀ NỘI DUNG CÁC ĐỆ TRÌNH CỦA PHILIPPINES
1. Thông tin cơ bản về Vụ kiện Trọng tài
Vụ kiện Trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc liên quan đến đơn kiện của Philippines đề nghị phán quyết về bốn vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông. Thứ nhất, Philippines muốn Tòa phán quyết về nguồn luật
quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trên Biển Đông và hiệu lực của Công ước đối với yêu sách về quyền
lịch sử bên trong cái gọi là “đường chín đoạn” của Trung Quốc. Thứ hai, Philippines muốn Tòa phán quyết, liệu một số cấu trúc mà cả Trung Quốc và Philippines cùng yêu sách được xác định chính xác là đảo, đảo đá, bãi cạn lúc nổi
lúc chìm hay bãi chìm theo Công ước. Quy chế pháp lý của các cấu trúc này theo
Công ước quyết định vùng biển mà những cấu trúc đó có thể có được. Thứ ba, Philippines muốn Tòa phán quyết liệu một số hành động của Trung Quốc ở Biển Đông có
vi phạm Công ước không khi can thiệp vào việc Philippines thực thi các quyền chủ quyền và
quyền tự do phù hợp với Công ước, cũng như Trung Quốc đã làm tổn hại đến môi
trường biển thông qua các hoạt động đánh cá và xây dựng. Cuối cùng, Philippines muốn Tòa phán quyết về một số hoạt động do Trung Quốc tiến hành, cụ thể
là việc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa kể từ khi
vụ kiện bắt đầu đến nay đã làm mở rộng và làm phức tạp thêm tranh chấp.
Chính
phủ Trung Quốc theo quan điểm không chấp nhận và không tham gia vào trình tự tố
tụng của vụ kiện.
2. Lập trường của
các bên
Philippines đã đưa ra 15 đệ trình trong vụ kiện,
yêu cầu Tòa xác định:
1)
Phạm vi các vùng biển mà Trung Quốc có
quyền được hưởng trên Biển Đông, cũng giống như của Philippines, không thể vượt ra ngoài những gì được Công ước cho phép;
2)
Các yêu sách của Trung Quốc về các quyền
chủ quyền và quyền tài phán, và đối với “các quyền lịch sử”, đối với các vùng
biển trên Biển Đông nằm bên trong gọi là “đường chín đoạn” là trái với Công ước và không có hiệu
lực pháp lý trong chừng mực mà chúng vượt quá các giới hạn địa lý và thực chất
của các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng theo Công ước;
3)
Bãi Scarborough không được hưởng vùng
đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa riêng;
4)
Bãi Vành Khăn (Mischief Reef), bãi Cỏ
Mây (Second Thomas Shoal) và đá Xu-bi (Subi Reef) đều là các bãi cạn nửa nổi,
nửa chìm và chúng không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục
địa, đồng thời không phải là các cấu trúc có thể bị thụ đắc thông qua chiếm đóng
hay thông qua cách khác;
5)
Bãi Vành Khăn (Mischief Reef) và bãi Cỏ
Mây (Second Thomas Shoal) là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của Philippines;
6)
Đá Ga-ven (Gaven Reef) và đá Ken-nan
(McKennan Reef) (bao gồm cả đá Tư Nghĩa (Hughes Reef)) là các bãi cạn nửa nổi nửa chìm, không thể
có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, nhưng ngấn nước thấp nhất
của chúng có thể được dùng để lần lượt xác định đường cơ sở để tính chiều rộng
lãnh hải của đảo Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sin Cowe);
7)
Bãi Gạc Ma (Johnson Reef), đá Châu Viên
(Cuarteron Reef) và đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) không thể được hưởng vùng
đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa;
8)
Trung Quốc đã can thiệp một cách bất hợp
pháp tới việc Philippines hưởng và thực thi các quyền chủ quyền của mình
liên quan đến các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines;
9)
Trung Quốc đã hành động một cách bất hợp
pháp khi không ngăn cản công dân và tàu thuyền của mình khai thác các nguồn tài
nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines;
10)
Trung Quốc đã ngăn cản một cách bất hợp
pháp việc ngư dân Philippines theo đuổi sinh kế bằng việc can thiệp vào các hoạt động đánh bắt cá truyền
thống tại bãi Scarborough;
11)
Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ theo Công
ước trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển ở bãi Scarborough và bãi Cỏ
Mây;
12)
Việc Trung Quốc chiếm đóng và tiến hành
các hoạt động xây dựng tại bãi Vành Khăn: (a)
vi phạm các điều khoản của Công ước liên quan đến các đảo nhân tạo, thiết bị và
công trình; (b) vi phạm nghĩa vụ của Trung Quốc trong việc bảo
vệ và bảo tồn môi trường biển theo Công ước; (c) cấu thành những hành vi bất hợp
pháp trong việc cố tình chiếm đoạt theo cách vi phạm Công ước;
13)
Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ theo
Công ước trong việc sử dụng các tàu chấp pháp một cách nguy hiểm, gây ra nguy
cơ nghiêm trọng về va chạm với tàu Philippines hoạt động xung quanh bãi
Scarborough;
14)
Từ khi vụ kiện trọng tài này được bắt
đầu vào tháng 1/2013, Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm và mở rộng các tranh
chấp thông qua các việc sau: (a) can thiệp vào các quyền hàng hải của Philippines trong
vùng nước tại và tiếp giáp bãi Cỏ Mây; (b) ngăn cản việc
luân chuyển và tiếp tế cho lực lượng của Philippines đồn trú tại bãi Cỏ Mây; (c) đe dọa đến sức khỏe và đời sống
của lực lượng của Philippines đồn trú tại bãi Cỏ Mây;
15)
Trung Quốc phải chấm dứt
có thêm các yêu sách và hành động phi pháp.
Trung
Quốc không chấp nhận và không tham gia vào vụ kiện này, nhưng tuyên bố lập
trường của mình là “Tòa trọng tài không có thẩm quyền đối với vụ kiện này”.
Trong Tài liệu lập trường của mình, Trung Quốc đã đưa ra các lập luận sau:
- Bản
chất của vụ kiện là chủ quyền lãnh thổ đối với một số cấu trúc biển ở Biển
Đông, vấn đề này nằm ngoài phạm vi của Công ước và không liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng Công ước;
- Trung
Quốc và Philippines đã thống nhất, thông qua các thỏa thuận song phương và Tuyên bố về cách
ứng xử của các bên ở Biển Đông, giải quyết các tranh chấp liên quan thông qua
thương lượng. Việc Philippines đơn phương khơi kiện tòa trọng tài này là vi phạm nghĩa vụ theo quy
định của luật pháp quốc tế;
- Ngay
cả khi giả định rằng nội dung của vụ kiện liên quan đến giải thích và áp dụng
Công ước, các nội dung này là một phần không tách rời của quá trình phân định
biển giữa hai quốc gia, như vậy sẽ rơi vào trường hợp tuyên bố năm 2006 của
Trung Quốc phù hợp với Công ước, trong đó loại trừ các tranh chấp về phân định
biển khỏi cơ chế trọng tài bắt buộc hay các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc
khác;
3. Phán quyết của Tòa về
Phạm vi thẩm quyền
Để
có bức tranh hoàn chỉnh, các quyết định của Tòa về thẩm quyền quyết được tóm
tắt chung ở đây.
a. Các vấn đề ban đầu
Tòa
nhận thấy rằng cả Philippines và Trung Quốc đều là thành viên Công ước và Công ước
không cho phép một Quốc gia tự loại trừ mình khỏi cơ chế giải quyết tranh chấp
được quy định trong Công ước. Tòa cho rằng việc Trung Quốc không tham
gia vào vụ kiện không tước bỏ thẩm quyền của Tòa và Tòa đã được thành lập đúng
với các điều khoản của Phụ lục VII của Công ước, trong đó bao gồm một thủ
tục thành lập tòa ngay cả trong trường hợp một bên vắng mặt.
b. Sự tồn tại của một Tranh chấp
Liên quan đến Giải thích và Áp dụng Công ước
Trong
Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường
của Trung Quốc rằng tranh chấp của các Bên thực ra là về chủ quyền lãnh thổ và
do đó không phải là một vấn đề liên quan đến Công ước. Tòa chấp nhận rằng tồn
tại một tranh chấp giữa các Bên liên quan đến chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông,
nhưng Tòa cho rằng các vấn đề được Philippines đệ trình để giải quyết bằng trọng
tài lại không liên quan đến chủ quyền. Tòa cho rằng không cần thiết
phải ngầm quyết định về chủ quyền để có thể xem xét các Đệ trình của Philippines và rằng việc xem xét đó sẽ không hỗ trợ cho các yêu sách chủ quyền
của bất kỳ Bên nào đối với các đảo ở Biển Đông.
Cuối
cùng, Tòa quyết định rằng các Đệ trình của Philippines đều phản ánh một tranh chấp liên quan đến Công ước.
c. Sự tham gia của Bên thứ ba không
thể thiếu
Trong
Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét việc các Quốc gia khác cũng có yêu
sách đối với các đảo ở Biển Đông không tham gia vào vụ kiện trọng tài có cản
trở thẩm quyền của Tòa hay không. Tòa thấy rằng quyền của các Quốc gia khác sẽ
không cấu thành “nội dung chính của phán quyết” – tiêu chuẩn để bên thứ ba có
thể được coi là không thể thiếu. Tòa cũng lưu ý thêm rằng vào tháng 12/2014,
Việt Nam đã đệ trình một
tuyên bố lên Tòa, trong đó Việt Nam
tuyên bố rằng “không nghi ngờ gì Tòa có thẩm quyền trong vụ kiện này”. Tòa cũng
lưu ý rằng Việt Nam, Malaysia và Indonesia đã dự các phiên tòa về thẩm quyền
với tư cách quan sát viên, và không quốc gia nào nêu lên lập luận rằng sự tham
gia của mình là không thể thiếu.
d. Điều kiện tiên quyết đối với
thẩm quyền
Tòa
đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng Tuyên bố
về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông năm 2002 ngăn Philippines khởi kiện trọng tài. Tòa cho
rằng Tuyên bố trên là một thỏa thuận chính trị và không ràng buộc về pháp
lý, không định ra một cơ chế giải quyết tranh chấp một cách ràng buộc, không
loại trừ các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, và do đó không hạn chế thẩm
quyền của Tòa theo Điều 281 hay 282.
e. Ngoại lệ và giới hạn của thẩm
quyền
Trong
phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu Đệ trình của Philippines liên quan đến các quyền lịch sử của Trung Quốc và ‘đường chín đoạn’ có
bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền các tranh chấp liên quan đến
‘danh nghĩa lịch sử’ theo Điều 298 của Công ước hay không. Tòa đã rà soát nghĩa
của cụm từ ‘danh nghĩa lịch sử’ trong luật biển và quyết định
là thuật ngữ này dẫn chiếu đến những yêu sách về chủ quyền lịch sử đối với
các vịnh và vùng biển gần bờ. Sau khi xem xét các yêu sách và hành vi của
Trung Quốc ở Biển Đông, Tòa kết luận rằng Trung Quốc đã yêu sách quyền
lịch sử đối với các tài nguyên trong ‘đường chín đoạn’, nhưng không yêu sách
danh nghĩa lịch sử đối với các vùng biển ở Biển Đông. Do đó, Tòa kết luận rằng
Tòa có thẩm quyền để xem xét các nội dung kiện của Philippines liên quan đến quyền lịch sử và về
vấn đề ‘đường chín đoạn’ giữa Philippines và Trung Quốc.
Trong
Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa cũng xem xét liệu các Đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều
298 những tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới biển. Trong Phán quyết
ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét các bằng chứng về các bãi và đảo mà Trung Quốc
yêu sách ở Biển Đông và kết luận rằng không một đảo, bãi nào có khả năng được
hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Do Trung Quốc không có khả năng được hưởng vùng
đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines ở quần đảo Trường Sa, Tòa quyết định là các đệ trình của
Philippines không phụ thuộc vào việc phân định trước ranh giới.
4. Phán quyết của Tòa liên quan đến Nội
dung khởi kiện thực chất của Philippines
a. ‘Đường chín đoạn’ và Yêu sách Quyền
lịch sử của Trung Quốc trên các vùng biển thuộc Biển Đông
Tòa
nhận thấy rằng yêu sách về quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các tài nguyên
là không phù hợp với sự phân bổ chi tiết về quyền và vùng biển của Công ước và
kết luận rằng, nếu Trung Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các
vùng biển ở Biển Đông, những quyền đó đã bị xóa bỏ bởi việc Công ước có hiệu
lực ở chừng mực mà chúng không phù hợp với hệ thống các vùng biển của Công ước.
Tòa
cũng xem xét hồ sơ lịch sử để xác định liệu Trung Quốc có thật là có quyền lịch
sử đối với tài nguyên ở Biển Đông trước khi Công ước có hiệu lực hay không. Tòa
lưu ý rằng có chứng cứ cho thấy người đi biển và ngư dân của Trung Quốc, cũng
như của các nước khác, trong lịch sử đã sử dụng các đảo ở Biển
Đông, mặc dù Tòa nhấn mạnh rằng Tòa không có thẩm quyền để xác định chủ quyền
đối với những đảo đó. Tuy nhiên, Tòa quyết định là trước khi có Công
ước, các vùng biển ở Biển Đông bên ngoài vùng lãnh hải về pháp lý đều là một
phần của vùng biển quốc tế, tại đó tàu thuyền của bất kỳ Quốc gia nào đều có
thể qua lại và đánh cá một cách tự do. Vì vậy, Tòa đã kết luận rằng việc Trung
Quốc qua lại và đánh cá trong lịch sử ở vùng biển của Biển
Đông đã thể hiện các quyền tự do trên biển cả, thay vì một quyền lịch sử, và
rằng không có chứng cứ nào cho thấy rằng trong lịch sử Trung Quốc đã một mình thực
hiện việc kiểm soát các vùng biển ở Biển Đông hay ngăn cản các quốc gia khác
khai thác những tài nguyên của mình.
Do
đó, Tòa kết luận rằng, giữa Philippines và Trung Quốc, không có căn cứ pháp
lý nào để Trung Quốc yêu sách các quyền lịch sử đối với tài nguyên, bên ngoài
những quyền quy định trong Công ước, tại các vùng biển nằm bên trong ‘đường
chín đoạn’.
b. Quy chế của các cấu trúc tại Biển
Đông
Theo
Điều 13 và 121 của Công ước, các cấu trúc nổi trên mặt nước vào lúc thủy triều
lên cao sẽ ít nhất được hưởng lãnh hải 12 hải lý, trong khi những cấu trúc bị
chìm khi thủy triều lên sẽ không có quyền có các vùng biển. Tòa Trọng tài ghi
nhận rằng nhiều rặng san hô tại Biển Đông đã bị thay đổi nặng nề do việc cải
tạo và xây dựng đảo gần đây và nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc
dựa trên điều kiện tự nhiên của nó. Tòa Trọng tài đã chỉ định một chuyên gia
thủy văn học để hỗ trợ Tòa trong việc đánh giá các bằng chứng kỹ thuật của Philippines và dựa chủ yếu vào các tài liệu lưu trữ và các đánh giá thủy văn trước
đây để đánh giá các cấu trúc này. Tòa Trọng tài nhất trí với Philippines rằng bãi Scarborough, Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập là các cấu trúc nổi
và Xu Bi, Tư Nghĩa, Vành Khăn và Cỏ Mây là cấu trúc chìm trong điều kiện tự
nhiên. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài không nhất trí với Phi-líp-pin về quy chế của Ga
Ven (phía Bắc) và Ken Nan và kết luận rằng cả hai đều là cấu trúc nổi.
Tòa
Trọng tài tiếp theo đã xem xét liệu có cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có
thể tạo ra các vùng biển ngoài 12 hải lý hay không. Theo Điều 121 của Công ước,
các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và có thềm lục địa, nhưng “các
đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng
sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa”. Tòa Trọng tài thấy rằng
quy định này liên hệ chặt chẽ với việc mở rộng quyền tài phán của Quốc gia ven biển
với việc hình thành vùng đặc quyền kinh tế và nhằm để ngăn ngừa việc các cấu
trúc không lớn có thể tạo ra các vùng biển lớn, mà điều này xâm phạm vào vùng
biển của các lãnh thổ có người ở hoặc vùng biển quốc tế và vùng đáy biển vốn là
di sản chung của nhân loại. Tòa Trọng tài giải thích Điều 121 và kết luận rằng
các quyền có vùng biển của một cấu trúc phụ thuộc vào (a) năng lực khách quan
của cấu trúc; (b) trong điều kiện tự nhiên, nó có thể duy trì hoặc (c) một cộng
đồng dân cư ổn định hoặc (d) hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào tài
nguyên bên ngoài và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác.
Tòa
Trọng tài thấy rằng nhiều cấu trúc tại Trường Sa hiện đang được một hoặc nhiều
quốc gia ven biển kiểm soát và họ đã xây dựng các cấu trúc và duy trì nhân lực
tại chỗ. Tòa Trọng tài thấy rằng sự hiện diện thời nay phụ thuộc vào các nguồn
lực và hỗ trợ bên ngoài và thấy rằng nhiều cấu trúc đã bị biến đổi để nâng cao
khả năng sinh sống của con người, kể cả thông qua cải tạo đảo và xây dựng các
cơ sở hạ tầng như các nhà máy xử lý nước mặn. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc
hiện diện của các nhân viên công quyền trên nhiều cấu trúc không chứng minh
được khả năng của các cấu trúc này, trong điều kiện tự nhiên, để duy trì cộng
đồng cư dân ổn định và cho rằng các bằng chứng lịch sử về việc định cư hoặc đời
sống kinh tế có ý nghĩa hơn đối với năng lực khách quan của các cấu trúc. Qua
đánh giá hồ sơ lịch sử, Tòa Trọng tài thấy rằng các đảo Trường Sa trong lịch sử
từng được các nhóm nhỏ ngư dân từ Trung Quốc và các nước khác sử dụng, và một
số công ty khai thác phân chim và đánh cá của Nhật đã có hoạt động tại đây vào
những năm 1920 và 1930. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc sử dụng tạm thời các
cấu trúc của ngư dân không dẫn đến việc cư ngụ của một cộng đồng ổn định và tất
cả các hoạt động kinh tế trong lịch sử đều chỉ có tính chất khai thác. Theo đó,
Tòa Trọng tài kết luận rằng tất các cấu trúc nổi tại Trường Sa (bao gồm, ví dụ,
Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây) đều là “đảo đá”
về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.
Tòa
Trọng tài cũng kết luận rằng Công ước không quy định việc một nhóm các đảo như
quần đảo Trường Sa sẽ có các vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất.
c. Các hành vi của Trung Quốc tại Biển
Đông
Sau
khi kết luận Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Bãi Cỏ Rong là cấu trúc chìm, tạo thành
một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines và không chồng lấn với bất kỳ vùng biển
nào Trung Quốc có thể có, Tòa Trọng tài kết luận rằng Công ước đã rõ ràng trong
việc trao quyền chủ quyền cho Philippines đối với các khu vực biển trong vùng
đặc quyền kinh tế của nước này. Tòa Trọng tài xác định, trên thực tế, Trung
Quốc đã (a) can thiệp vào việc thăm dò dầu khí của Philippines tại Bãi Cỏ Rong; (b) chủ ý cấm các
tàu Philippines đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và (c) bảo vệ cho và không ngăn ngừa
các ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây, và (d) xây dựng các công trình và đảo nhân
tạo tại Vành Khăn mà không được sự đồng ý của Philippines. Do vậy Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã
vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này.
Tiếp
theo Tòa Trọng tài xem xét quyền đánh cá truyền thống tại bãi Scarborough và
kết luận rằng ngư dân từ Philippines, cũng như Trung Quốc và các nước khác, đã đánh cá
tại bãi Scarborough từ lâu và có quyền đánh cá truyền thống tại khu vực này. Do
bãi cạn Scarborough nổi trên mặt nước lúc thủy triều lên, cấu trúc này có quyền
có lãnh hải, vùng nước xung quanh cấu trúc này không tạo thành vùng đặc quyền
kinh tế và quyền đánh cá truyền thống không bị mất đi do Công ước. Dù Tòa Trọng
tài nhấn mạnh rằng Tòa không quyết định về vấn đề chủ quyền đối với bãi cạn
Scarborough, Tòa xác định rằng Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền
đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi ngăn chặn tiếp cận bãi cạn
Scarborough sau tháng 5 năm 2012. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thấy rằng Tòa cũng
sẽ có kết luận tương tự đối với quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Trung
Quốc nếu Philippines có hành động ngăn cản việc đánh cá của công dân Trung Quốc tại bãi
Scarborough.
Tòa
Trọng tài xác định rằng việc Trung Quốc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo
nhân tạo gần đây tại bảy cấu trúc tại Trường Sa đã gây ra ảnh hưởng nghiêm
trọng đối với môi trường rặng san hô và Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ của mình
theo Điều 192 và 194 của Công ước trong việc bảo tồn và bảo vệ môi trường biển
đối với các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sinh sống của các loài
động vật bị đe dọa, sắp cạn kiệt. Đồng thời Tòa Trọng tài cũng xác định rằng
ngư dân Trung Quốc đã thực hiện việc khai thác động vật bị đe dọa như rùa biển,
san hô và trai khổng lồ ở quy mô lớn tại Biển Đông, sử dụng các biện pháp gây
hủy hoại nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hộ. Tòa Trọng tài xác định
rằng chính quyền Trung Quốc đã nhận thức được các hành vi này và không thực
hiện nghĩa vụ cẩn trọng theo Công ước để ngăn chặn.
d. Làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa
các Bên
Trong
Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem xét liệu các hoạt
động cải tạo đất quy mô lớn gần đây và xây dựng các đảo nhân tạo của Trung Quốc
tại 7 cấu trúc tại Trường Sa từ khi bắt đầu thủ tục trọng tài có làm gia tăng
tranh chấp giữa các Bên. Tòa Trọng tài nhắc lại rằng các bên tham gia vào cơ
chế giải quyết tranh chấp có nghĩa vụ kiềm chế việc làm trầm trọng thêm hoặc mở
rộng một tranh chấp hoặc các tranh chấp về các vấn đề đang được thụ lý. Tòa
Trọng tài thấy rằng Trung Quốc đã (a) xây dựng một đảo nhân tạo lớn tại Vành
Khăn, một cấu trúc lúc chìm lúc nổi nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines; (b) gây ra
hủy hoại lâu dài, không thể phục hồi đối với hệ sinh thái rặng san hộ và (c)
phá hủy lâu dài các chứng cứ về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc này. Tòa
Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ về kiềm chế làm trầm
trọng thêm và kéo dài tranh chấp giữa các Bên trong khi chờ quá trình xét xử.
e. Hành vi tương lai của các Bên
Cuối
cùng, Tòa Trọng tài xem xét đề nghị của Philippines về việc đưa ra tuyên bố rằng, từ nay về sau, Trung
Quốc cần tuân thủ các quyền và quyền tự do của Philippines và tuân thủ các nghĩa vụ của nước
này theo Công ước. Về vấn đề này, Tòa Trọng tài thấy rằng cả Philippines và Trung Quốc đều đã nhiều lần thừa nhận Công ước và các nghĩa vụ chung
về thiện chí trong xác định và điều chỉnh các hành vi của mình. Tòa Trọng tài
xét rằng cốt lõi của tranh chấp trong vụ kiện này không nằm ở ý định của Trung
Quốc hay Philippines trong việc xâm phạm quyền lợi pháp lý của bên kia, mà chính là do có sự
hiểu khác nhau cơ bản về các quyền của nước mình theo Công ước đối với các vùng
nước thuộc Biển Đông. Tòa Trọng tài nhắc lại rằng trong luật pháp quốc tế có
nguyên tắc cơ bản là “không thiện chí” không thể tự suy diễn và thấy rằng Điều
11 của Phụ lục VII đã quy định “phán quyết…sẽ được các bên trong tranh chấp
tuân thủ”. Vì vậy, Tòa Trọng tài thấy không cần thiết phải đưa ra tuyên bố nào
nữa.
Toàn văn phán quyết:
Thông cáo báo chí của PCA: