Chiếc máy bay Yak40 cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất
lúc 6 giờ 20 ngày 14/11/1992, bị mất tích khi gần tới Nha Trang. Trên máy bay
có 31 người, gồm phi hành đoàn 6 người và một nhân viên hàng không, 15 hành
khách Việt Nam, 4 người Đài Loan (Trung Quốc), 2 người Hà Lan, một cặp vợ chồng
Pháp - Anh, 1 người Thụy Điển.
Vị trí máy bay Yak40 rơi
Sang ngày thứ 8, mới thấy nạn nhân
Để xuống Nha Trang, máy bay phải bay vòng ra biển, hạ
cánh từ hướng đảo Hòn Tre. Theo cuộc đàm thoại cuối cùng giữa phi công máy bay
VN-A449 với đài kiểm soát không lưu, phi công báo đã nhìn thấy biển, xin hạ độ
cao, vào hạ cánh. Do vậy, dự đoán đầu tiên về vị trí máy bay gặp nạn là vùng
biển Nha Trang. Nhưng tìm kiếm tại đó không phát hiện dấu hiệu gì.
Trong khi đó, bà Mấu Thị Năm ở thôn Ma
O (Sơn Trung, Khánh Sơn, Khánh Hòa) và ông Mấu Quốc Tân, Xã đội trưởng xã Sơn
Trung nói, sáng ngày 14/11/1992 họ thấy máy bay bay trên đầu, rồi nghe như có
tiếng nổ. Sáng ngày 16/11/1992, hai tổ dân quân Sơn Trung lên đường tìm kiếm chiếc
máy bay mất tích, một tổ lên phía đỉnh núi Hòn Bà, tổ của ông Tân đi về hướng
Suối Chè (khu vực tháng 9/2012 có vụ tìm trầm, ăn chặn tiền bán trầm nổi
tiếng). “Khi đó là mùa mưa, trong rừng rậm cách dăm mét là không dòm thấy gì
hết, trơn trượt, đi cực lắm”. Ông Tân kể. Sáng
ngày 17/11/1992, từ Suối Chè họ tiếp tục chặt cây mở lối leo lên hướng thung
lũng Ô Kha ở núi Manhan, qua một dốc cao thì thấy mùi xăng. Tuy nhiên, mưa lớn,
rừng rậm khiến hành trình tìm kiếm của họ rất khó khăn. Đến 2 giờ chiều ngày
18/11/1992, họ phát hiện một túi nôn, hai thẻ đi máy bay. Khoảng 9 giờ sáng
ngày 20/11/1992, họ phát hiện mảnh xác máy bay đầu tiên…
Sơ đồ hiện trường: 1. Vị trí phát hiện cánh trái máy bay; 2. Vị trí phát hiện cánh phải máy bay; 3. Vị trí phát hiện cánh tà; 4. Vị trí phát hiện càng và bánh máy bay; 5. Vị trí phát hiện hộp đen; 6. Vị trí đuôi máy bay rơi; 7. Vị trí một phần vỏ thân máy bay; 8. Vị trí đầu và thân máy bay - ảnh tư liệu
Đoàn tìm kiếm do Đại tá Lê Hải, Trợ lý Cục trưởng Cục
Hàng không Việt Nam
làm trưởng đoàn lập tức tập trung lên Ô Kha. Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 21/11,
họ tới nơi nhóm ông Tân tìm thấy cánh máy bay, triển khai dựng trại, tìm kiếm
mở rộng và thắp hương cho những người xấu số. “Chúng tôi gác cả đêm ngày 20 ở
đó mà không nghe tiếng ai, chỉ nghe như có tiếng cọp. Vậy mà ông Lê Hải mới
thắp nhang, nhang chưa cháy hết một ngón tay thì nghe có tiếng người kêu cứu”.
Ông Tân kể. Đội tìm kiếm sang phía bên kia đỉnh đồi, phát hiện cánh đuôi máy
bay, tiếp theo phát hiện phần thân và đầu máy bay. Bà Annette đang ngồi cách
khoang hành khách khoảng hơn 5 mét, trong tình trạng hầu như không thể cử động,
hoại tử ở mông…
Tai nạn chồng tai nạn
Đối với Thượng tá Trần Minh Đức, Trưởng phòng Kỹ thuật
Hình sự, Công an tỉnh Khánh Hòa, 5 ngày khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử
thi ở thung lũng Ô Kha tháng 11/1992 là kỷ niệm ám ảnh suốt đời. Cả tháng sau đó,
ông Đức nằm ngủ dưới sàn, không dám nằm chung với vợ con. “Lúc nào cũng cảm
thấy cái mùi xác chết phảng phất bên cạnh mình”. Thượng tá Đức nói.
Năm 1992, ông Đức là Trung úy, đội phó
đội Hiện trường, Phòng KTHS, Công an Khánh Hòa. Sáng ngày 21/11/1992, Trung tá
Nguyễn Xuân Quý, Trưởng phòng KTHS triệu tập ông Đức và một người nữa cùng lên
Ô Kha. Nhưng khi ra sân bay Nha Trang, Trung tá Cao Minh Nhạn, Phó Giám đốc
Công an Khánh Hòa (nay là Trung tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát
Phòng chống tội phạm, Bộ Công an) nói ông Quý già rồi, leo núi không được, bảo
ông Hải, đội trưởng của ông Đức đi. Cùng đi với họ có mấy cán bộ ngành bảo hiểm.
Máy bay trực thăng chở họ bay gần tới Khánh Sơn phải quay về, vì sương mù.
Khoảng hơn 10 giờ, lại bay lên, hạ cánh ở thị trấn Tô Hạp. Từ trên cao, ông Đức
thấy đường lên Khánh Sơn đông nghịt xe cộ của người lên làm nhiệm vụ, người nhà
nạn nhân, người của các đơn vị có nạn nhân, người hiếu kỳ. Lúc đó huyện Khánh
Sơn có hơn chục nghìn dân, thị trấn Tô Hạp có hơn hai nghìn dân, mà mấy ngày từ
khi phát hiện máy bay rơi có cả ngàn người tới đây.
Phần đuôi máy bay Yak40 tại hiện trường - ảnh tư liệu
Sáng sớm ngày 22/11/1992, đoàn khám nghiệm lên thung
lũng Ô Kha. “Đi từ sáng sớm mà hai giờ chiều mới tới nơi, nhiều người rớt lại
phía sau”. Thượng tá Đức kể. Tại hiện trường có nhiều người chết trong tư thế
nằm bò, quay hướng đầu về nơi bà Annette ngồi, như anh Võ Duy Hải ở đường Nguyễn
Thiện Thuật, Nha Trang… Có thể thấy, sau khi tai nạn xảy ra vẫn có một số người
trên máy bay còn sống. Đoàn công tác thuê dân địa phương khiêng võng đưa các tử
thi đã được khám nghiệm xuống núi, mỗi tử thi có ba người khiêng.
Sáng ngày 22/11/1992, bà Annette được đưa từ Ô Kha xuống
Tô Hạp, để lên máy bay trực thăng về Nha Trang. Tuy nhiên, chuyến máy bay trực
thăng Mi-8 đưa lên thêm người của đoàn công tác cùng với lương thực thực phẩm
và kinh phí để chi trả cho người dân địa phương lại gặp nạn. Mấy tuần sau,
chiếc Mi-8 mới được tìm thấy trên núi, cách nơi máy bay VN-A449 rơi khoảng 5km
về phía Đông. Cả 7 người trên máy bay đã chết. Không có máy bay, bà Annette
phải nằm xe cứu thương về Cam Ranh, ngày 23/11/1992 mới về Nha Trang, sau đó
được đưa vào TP. Hồ Chí Minh rồi chuyển sang Singapore . Vài tháng sau, không
hiểu sao có tin bà Annette cũng chết do sốt rét và chấn thương tâm lý.
Nguyên nhân: Do thời tiết xấu
Theo biên bản khám nghiệm hiện trường và tử thi vụ máy
bay chở khách VN-A449 bị rơi, hiện trường vụ máy bay rơi xảy ra tại tọa độ 108059’30’’
kinh độ Đông, 12003’ vĩ độ Bắc, ở khu vực dãy núi Manhan thuộc xã
Sơn Trung, độ cao 970 mét. Từ điểm bắt đầu va chạm đến vị trí có đầu và thân
máy bay dài 600 mét, cây bị gãy theo chiều hướng thấp dần theo hướng Đông Bắc
(hướng bay)… Thân máy bay bị đứt gãy làm 2 đoạn, đoạn thân sau bị tụt lại. Đoạn
đầu và thân buồng lái bị thủng, vỡ vụn làm nhiều phần. Trong khoang hành khách,
ghế bị đảo lộn, vách bị rách đổ vỡ lộn xộn đè lên các tử thi cả nam và nữ, nhiều
hành khách trong khoang vẫn còn các dây an toàn và ghế máy bay buộc liền theo
người. Đa số các tử thi không còn nguyên vẹn, có một số tử thi bị gảy cụt chân,
cụt đầu và văng ra xung quanh đầu và thân máy bay...
Ngày 20/12/1992, ông Nguyễn Văn Tạo,
Phó Viện trưởng Viện Khoa học Hình sự kiêm ủy viên Ủy ban lâm thời Nhà nước
điều tra tai nạn máy bay ký Báo cáo về Đánh giá công tác khám nghiệm hiện
trường, công tác giám định pháp y, giám định hóa lý và giám định đường vân vụ
máy bay Yak40 số hiệu VN-A449 lâm nạn. Theo báo cáo, máy bay VN-A449 có xu
hướng từ thung lũng Ô Kha cố tăng độ cao đế vượt qua đỉnh núi Manhan, hướng bay ổn định, thể
hiện người lái vẫn đang điều khiển phương tiện trước khi máy bay va chạm vào
cây cách đỉnh đồi 150m. Không tìm thấy dấu hiệu máy bay bị bắn, bị nổ do bom
mìn hoặc cháy do hóa chất lạ. Tại buồng lái không phát hiện thấy người thứ 5
(người lạ), mà chỉ có 4 người của phi hành đoàn ngồi đúng các vị trí của mình.
Do đó, loại trừ khả năng có không tặc.
Annette Herfkens trong lần trở lại Ô Kha năm 2006- ảnh của bà Annette
Nạn nhân
Emmerson Hamish, quốc tịch Anh được nhận dạng qua film răng do gia đình mang
sang Việt Nam với tài liệu mô tả răng tại hiện trường và các mô tả hỗ trợ về
đặc điểm cơ thể khác, do đó Lãnh sự quán Anh tại TP Hồ Chí Minh và gia đình
nhận, mang về nước. Nạn nhân Willem van der Pas, quốc tịch Hà Lan, chồng chưa
cưới của bà Annette được người anh và em gái nhận mang về nước nhờ đối chiếu hỗ
trợ qua mô tả quần áo, tư trang, đặc điếm cơ thể. Nạn nhân Wellvet Knut, quốc
tịch Thụy Điển, có passport ở túi quần tử thi, đối chiếu ảnh răng từ gia đình
gửi sang và các mô tả đặc điểm cơ thể tại hiện trường là trùng hợp nên gia đình
mang về nước. Tuy nhiên, đã có sự nhầm lẫn: thi hài ông Emmerson (Anh) bị đưa
về Hà Lan, thi hài ông Willem (Hà Lan) bị đưa về Thụy Điển và hỏa thiêu tại đó,
thi hài ông Wellvet (Thụy Điển) bị đưa về Anh. Nguyên nhân nhầm lẫn được xác
định do sai sót trong khi làm vệ sinh lại cho các tử thi, tại TP Hồ Chí
Minh.
Ngày 27/11/1970, một máy bay C-123K của
Không quân Mỹ, bay từ Tân Sơn Nhất đi Nha Trang đã đâm vào núi ở vị trí cách
Nha Trang 25 km về phía Tây Nam (gần vị trí máy bay Yak40 VN-A449 rơi), toàn bộ
79 người trên máy bay thiệt mạng. Theo người dân Khánh Sơn, đã có nhiều máy bay
Mỹ bị rơi ở vùng núi Ô Kha trong chiến tranh Việt Nam .
Nguyễn
Đình Quân